18 NƠI CỔ XƯA NHẤT Ở SÀI GÒN
01. Ngôi trường xưa nhất
02.Nhà máy điện xưa nhất
Nhà
máy điện Chợ Quán được xây vào năm 1896, máy phát điện chạy bằng hơi
nước
có 5 lò hơi với 150m2, cung cấp dòng điện 3 pha, công suất chưa tới
120MW [Megawatt]. Máy phát điện chính công suất 1000A/h [A=Ampere hay
Amp./h=hour]. Hiện nay, nhà máy đã được trang bị hiện đại với 7 máy phát
điện, hòa với lưới điện quốc gia cung ứng phần
quan trọng cho lưới điện thành phố. Nhà máy tọa lạc tại số 8 Bến Hàm
Tử, quận 5.
03. Bệnh viện xưa nhất
Bệnh viện Chợ Quán được xây vào năm 1826 do
một số nhà hảo tâm đóng góp, sau đó hiến cho nhà nước. Năm 1954-1957
[Bệnh viện được] giao cho Quân đội và đổi tên thành Viện Bài lao Ngô
Quyền. Năm 1974, đổi thành Trung tâm Y tế Hàn-Việt
với 522 giường. Tháng 9/1975, mang tên Bệnh viện Chợ Quán. Đến ngày
5/9/1989 chuyển thành Trung tâm Bệnh Nhiệt đới. Hiện nay có 610 Cán
bộ-Công nhân viên và 550 giường bệnh.
04.
Nhà hát xưa nhất
Nhà hát thành phố do kiến trúc sư người
Pháp khởi công và hoàn tất vào ngày 17/1/1900. Các phù điêu bên trong
được một họa sĩ tên tuổi ở Pháp vẽ giống như mẫu của các nhà hát ở Pháp
cuối thế kỷ XIX. Nhà hát là nơi trình diễn ca
nhạc kịch cho Pháp kiều xem. Năm 1956-1975, Nhà hát được dùng làm trụ
sở Hạ nghị viện cho các chính phủ Đệ I & II Việt Nam Cộng Hòa; tháng
5/1975 trở thành Nhà hát thành phố với 750 chỗ ngồi. Kỷ niệm 300 năm
Sài Gòn, toàn bộ phần kiến trúc bên ngoài Nhà hát
đã được tu sửa lại như lúc nguyên thủy.
05.
Khách sạn xưa nhất
Khách sạn Continental tọa lạc tại 132-134 Đồng Khởi,
được xây vào năm 1880 do Kiến trúc sư người Pháp thiết kế, tên khách
sạn
có ngay từ những ngày đầu. Sau ngày cướp được miền Nam, khách sạn
Continental bị Bắc Việt đổi thành Hải Âu. Đến năm 1989, khách sạn được
nâng cấp, chỉnh trang và lấy lại tên cũ Continental với diện tích
3430m2, cao 3 tầng, nơi đây đã từng đón tiếp các vị tổng
thống, thống đốc, nhà văn, người mẫu nổi tiếng. Ngày nay, khách sạn
Continental là một trong những khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế.
06.
Nhà thờ xưa nhất
Nhà thờ Chợ Quán tọa lạc tại số
20 Trần Bình Trọng,
P.2 [phường], Q.5 [quận] được xây vào năm
1674 là nhà thờ cổ nhất tại Sài Gòn và cổ nhất ở miền Nam. Ngôi thánh
đường nằm ở vị trí trung tâm, có kiến trúc kiểu phương Tây, lợp ngói đỏ,
có thể chứa khoảng 1000 người. Ngoài việc sinh hoạt tôn giáo, Họ đạo
Chợ Quán tích cực tham gia công tác xã hội giúp
đỡ người nghèo. Trải qua hơn 3 thế kỷ Nhà thờ Chợ Quán đã được trùng tu
nhiều lần. Hiện nay, nơi đây có phòng khám và phát thuốc từ thiện dưới
quyền quản lý của Hội Chữ thập đỏ [Hội Hồng Thập Tự] Quận 5.
07.
Ngôi đình xưa nhất
Một trong những ngôi đình cổ nhất của đất Gia Định xưa và xưa nhất Nam
Bộ là đình Thông Tây Hội, được xây vào khoảng năm 1679, là chứng tích
còn nguyên vẹn nhất của thời kỳ dân Ngũ Quảng kéo vào khai khẩn vùng Gò
đất có nhiều cây Vắp (từ đó trở thành tên địa
phương là Gò Vấp). Đình lúc đầu là của thôn Hạnh Thông–thôn khởi nguyên
của Gò Vấp, sau đổi thành Thông Tây Hội (do sự sáp nhập của thôn Hạnh
Thông Tây (thôn Mới) và thôn An Hội). Đình Thông Tây Hội có vị Thành
Hoàng rất độc đáo. Hai vị thần thờ ở đình là
hai hoàng tử con vua Lý Thái Tổ, do tranh ngôi với thái tử Vũ Đức nên
bị đày đi khai hoang ở vùng cực Nam tổ quốc và trở thành “Thủy tổ khai
hoang” trong lịch sử Việt Nam; hai vị thần đó là: Đông Chinh Vương và
Dục Thánh Vương. Ngôi đình còn giữ được khá nguyên
vẹn về quy mô và kiến trúc, kết cấu, với những chạm khắc đặc trưng Nam
bộ. Đình Thông Tây Hội thuộc P.11, Gò Vấp.
08.
Nhà văn hóa xưa nhất
Cung Văn hóa Lao Động. Năm 1866, với tên
gọi Cèrcle Sportif Saigonnais được xây dựng làm sân thể thao cho các
quan chức người Pháp với những hồ bơi, sân quần vợt, phòng đấu kiếm và
phòng nhảy đầm. Thời Mỹ chiếm đóng, sân chơi được
mở rộng hơn [và] phục vụ cho cả giới quý tộc. Tháng 11/1975, Ủy ban
Quân quản Sài Gòn–Gia Định trao toàn bộ khu này cho Liên đoàn Lao động
Thành phố để biến cải thành khu hoạt động văn hóa thể thao và vui chơi
giải trí cho công nhân lao động, lấy tên là Câu
lạc bộ Lao Động, sau đổi thành Nhà văn hóa Lao Động, và rồi là Cung Văn
hóa Lao Động. Diện tích 2.8ha, với 132 năm hình thành và phát triển,
Cung Văn hóa Lao Động là Nhà văn hóa cổ và lớn nhất của Sài Gòn.
09.
Công viên lâu đời nhất
Thảo Cầm Viên do người Pháp xây vào năm
1864, nhà thực vật học nổi tiếng người Pháp Louis Pierre làm giám đốc
đầu tiên. Mục đích xây dựng Thảo Cầm Viên để ươm cây giống trồng dọc các
đại lộ Sài Gòn, đồng thời là nơi nuôi & trồng
những động & thực vật [thuộc] miền nhiệt đới mà các Thảo Cầm Viên
của Pháp [lúc bấy giờ] chưa có. Năm 1865, chính phủ Nhật đã hỗ trợ
khoảng 900 giống cây quý như: Chizgnamat, Goyamtz, Acamatz, Coramatz,
Kayanoki, Kayamaki, Enoki, Maiki, Asoumaro, Sengni, Momi,
Cashi, Kiaki, Inoki... Động vật của Thảo Cầm Viên khá phong phú như: gà
lôi, sếu, cu gáy, hồng hoàng, công, hưu, nai, cọp, khỉ, chồn hương, tắc
kè, rùa, cọp xám, báo đen, gà lôi xanh, chim cú lợn... Đến năm 1989,
Thảo Cầm Viên được trùng tu, mở rộng và nhận
thêm nhiều giống thú mới, trồng thêm cây quý. Hiện nay, có 600 đầu thú
thuộc 120 loài, 1823 cây gỗ thuộc 260 loài và nhiều loại cây kiểng quý
trên diện tích 21.352m2. Năm 1990, Thảo Cầm Viên là thành viên chính
thức của Hiệp hội các vườn thú Đông Nam Á. Thảo
Cầm Viên đã tròn 134 tuổi, số lượng động & thực vật ngày càng tăng,
nơi đây đã gắn bó với từng bước đi lên của thành phố và là một trong
những công viên khoa học lớn nhất Đông Dương.
10.
Ngôi nhà xưa nhất
Ngôi nhà có tuổi thọ lâu đời nhất còn hiện diện tại Sài Gòn nằm trong khuôn viên Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn, số 180 Nguyễn Đình Chiểu, P.6, Q.3. Năm 1790, Vua Gia Long cho cất
ngôi nhà này ở gần Rạch Thị Nghè làm nơi ở cho Linh Mục Bá-Đa-Lộc và làm
nơi dạy học cho Hoàng tử Cảnh. Ngôi nhà được xây bên bờ sông Thị Nghè
trong địa phận Thảo Cầm Viên bây giờ. Năm 1799,
Bá-Đa-Lộc chết, ngôi nhà được giao cho linh mục khác. Từ năm 1811 đến
năm 1864 ngôi nhà bị đóng cửa vì chính sách cấm đạo của triều đình Huế.
Sau khi vua Tự Đức ký hòa ước với Pháp, ngôi nhà được trao lại cho Tòa
Giám Mục và được di chuyển về vị trí đường
Alexandre de Rhodes hiện nay.
Sau đó năm 1900 Tòa Giám Mục được xây cất
tại 180 đường Richaud (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) thì ngôi nhà gỗ
lại được dời về đây làm nhà thờ của Tòa Giám Mục. Ngôi nhà 3 gian 2
chái, lợp ngói âm dương, sườn, cột bằng gỗ, khung
cửa và các khung thờ đều được chạm trổ công phu [với] hình hoa, lá,
chim thú, hoa văn. Trong các di vật còn lại của ngôi nhà có một di vật
có giá trị lịch sử lớn, đó là đôi liễn gỗ có tám chữ triện khảm xà cừ là
tám chữ vua Gia Long ban tặng giám mục Bá-Đa-Lộc,
một bên là “Tứ Kỳ Thịnh Hy”, một bên là “Thần Chi Cách Tư”.
Ngôi nhà được tu sửa vào năm 1980, cách tu
sửa có tính chất vá víu, cốt giữ lại những gì có thể giữ được. Trải qua
hai thế kỷ ngôi nhà không giữ được nguyên trạng nhưng đây là một di tích
kiến trúc mang dấu ấn lịch sử, tôn giáo
và văn hóa nghệ thuật. Đây là một tài sản có giá trị mà các bậc tiền
nhân đã để lại cho chúng ta, không chỉ là truyền thống - bản sắc dân tộc
mà còn là bộ mặt quá khứ mang tính văn hóa kiến trúc, một khía cạnh văn
minh tại một vùng đất mới mọc lên từ đầm lầy,
kênh rạch.
11.
Ngôi chùa xưa nhất
Ngôi chùa có cảnh trí đẹp nhưng nằm ở địa điểm không tiện đi lại nên được ít người biết đến, [đó] là chùa Huê Nghiêm, tọa lạc ở 20/8
Đặng Văn Bi, Thủ Đức. Chùa được thành lập năm 1721 do Tổ Thiệt Thùy
(Tánh Tường) khai sáng. Tên chùa lấy từ tên bộ kinh Hoa Nghiêm. Đây là
chùa cổ xưa nhất trong các chùa ở TP Sài Gòn nên còn gọi là Huê Nghiêm
Cổ Tự. Những ngày đầu là một ngôi chùa nhỏ
được xây cất trên vùng đất thấp cách địa thế chùa hiện nay khoảng 100m.
Sau đó, Phật tử Nguyễn Thị Hiên pháp danh Liễu Đạo cúng đất để xây lại
ngôi chùa rộng rãi khang trang như hiện nay.
Qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1960,
1969, 1990 mặt tiền chùa ngày nay mang dáng vẻ kiến trúc của chùa hiện
đại nhưng các gian phía trong vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ truyền, mái
gian mặt tiền được cấu trúc gồm 3 lớp, nhỏ dần
về phía trên. Các đường gờ mái chạy dài xuống cuối đầu đăng đều trang
trí bằng hoa văn hình cánh sen đối xứng, giữa là hình bánh xe luân pháp,
đặt trên hoa sen. Mái lợp ngói ống màu đỏ, đường viền mái ngói màu
xanh.
Vườn chùa có nhiều cây xanh bóng mát, có 9
ngôi tháp cổ với nhiều kiểu dáng khác nhau như những cánh sen vươn lên.
Những hàng cột gỗ trong chùa được khắc nổi các câu đối bằng chữ Hán màu
đen kết hợp với việc chạm khắc mô típ “long
ẩn vân” dùng trang trí.
Chùa Huê Nghiêm là một di tích Phật giáo
quan trọng, là nơi dừng chân, sống đạo và hành đạo của nhiều vị danh
tăng uyên thâm Phật pháp, có đạo hạnh và có đạo đức. Chùa cũng là bằng
chứng về trình độ kiến trúc và phong tục tập quán
của người Việt trên vùng đất mới khai phá, mở ra nền văn minh trên vùng
đất hoang sơ.
12.
Đường sắt đầu tiên ở thành phố
Tuyến đường sắt đầu tiên ở nước ta là đoạn
đường sắt Sài Gòn–Mỹ Tho dài 71km, được xây vào năm 1881. Ga chính trước
chợ Bến Thành, văn phòng đường sắt là tòa nhà 2 tầng chiếm cả khu đất
bao bọc bởi ba đường Hàm Nghi–Huỳnh Thúc Kháng–Nam
Kỳ Khởi Nghĩa, nay là Xí nghiệp Liên hợp đường sắt khu vực 3. Xe lửa
chạy bằng máy hơi nước phải dùng than củi đốt nồi súp-de nên xe chạy khá
chậm. Vì không cạnh tranh nổi với xe đò trong việc chuyên chở hàng hóa
và hành khách, đường xe lửa Sài Gòn–Mỹ Tho
đã ngưng hoạt động từ lâu. Sau năm 1975, Ga xe lửa Sài Gòn được dời về
Ga Hòa Hưng. Vào ngày 8/8/1998, người ta khởi công xây cất Trung Tâm Văn
Hóa Thương Mại Sài Gòn trên nền Ga Sài Gòn cũ.
13.
Người Việt đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp
Ông Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Năm 1859,
Pháo hạm Pháp bắn vào cửa biển Đà Nẵng và thành cũ Gia Định, triều đình
nhà Nguyễn bắt buộc chấp nhận mở cửa đất nước cho tư bản thực dân Pháp
xâm nhập. Trong giai đoạn lịch sử mới, người
Việt Nam từng bước tiếp xúc với ngôn ngữ và văn minh mới. Trương Vĩnh
Ký là một trong những người sớm tiếp xúc và hấp thụ ngôn ngữ văn hóa
phương Tây đã trở thành học giả có nhiều sáng tác nhất bằng cả tiếng
Pháp và tiếng Hán–Việt. Ông là người Việt Nam đầu
tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp. Cuốn “Giáo trình lịch sử An Nam”
đã được xuất bản gồm hai tập dày 462 trang. Đây thực sự là một công
trình bác học biên soạn công phu dưới ánh sáng của một phương pháp luận
khoa học tiến bộ so với đương thời.
14.
Tờ báo bằng chữ Quốc Ngữ đầu tiên
Tờ
“Gia Định Báo” là tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở nước ta ra đời tháng
4/1865.
Tờ báo đăng những thông tin nghị định của nhà nước và những tin kinh tế
xã hội, lời bàn về thời cuộc, luân lý, lịch sử. Báo ra hằng tháng. Sau 4
năm phát hành, chính quyền thuộc địa cho phép báo phát hành hàng tuần
bằng quyết định số 51 ngày 18/3/1869.
15.
Tờ báo đầu tiên của Phụ nữ Việt Nam
Ngày 1/2/1918 tờ báo chuyên về Phụ nữ đầu
tiên ra đời là tờ “Nữ Giới Chung” nhằm nâng cao trí thức, khuyến khích
công-nông-thương, đề cao người Phụ nữ trong xã hội, chú trọng đến việc
dạy đức hạnh, nữ công, phê phán những ràng buộc
đối với Phụ nữ, đánh đổ mê tín dị đoan, động viên Phụ nữ quan tâm đến
việc “Nữ quyền”. Muốn có vị trí ngang hàng với nam giới ngoài việc tề
gia nội trợ phải am hiểu “tình trong thế ngoài”.
Chủ bút tờ báo là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh,
con gái nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, vốn có lòng yêu nước, yêu
thương đồng bào như thân phụ nên khi làm báo Bà có ý muốn làm diễn đàn
để tỉnh thức lòng yêu nước trong dân chúng. Tuy
chỉ tồn tại được hơn 6 tháng nhưng “Nữ Giới Chung” cũng đã gióng lên
một hồi chuông nữ quyền còn vang mãi đến ngày nay.
16.
Cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên
“Đại Nam Quốc
Âm Tự Vị” là cuốn từ điển tiếng Việt quốc ngữ La-tinh của Huỳnh Tịnh
Của gồm hai tập: Tập I xuất bản năm 1895, tập II xuất bản 1896 tại Sài
Gòn. Bộ từ điển chứa nhiều từ ngữ xưa, thành
ngữ, tục ngữ, từ ngữ về thảo mộc, cầm thú của Việt Nam và của miền Nam.
Bộ từ điển này trở thành Từ điển Bách khoa toàn thư đầu tiên về Nam Bộ.
17.
Người kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên
Ông Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) người làng
Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Gia đình ông theo đạo Thiên
Chúa, ông giỏi chữ Nho, thông hiểu Ngũ Kinh Tứ Thư, học chữ Quốc ngữ và
chữ Pháp với các giáo sĩ. Ông được giám mục
Gauthier đưa sang Paris năm 1858. Ông am hiểu chính trị, kinh tế, quân
sự, ngoại giao, pháp luật. Năm 1861 ông trở về nước, tàu ghé Sài Gòn thì
nơi đây đã đổi chủ, ông buộc phải làm phiên dịch cho người Pháp.
Trong lúc ở Sài Gòn, ông đã đứng ra xây cất tu viện dòng thánh Phao-lô.
Đây là công trình xây cất theo kiến trúc Châu Âu do người Việt Nam thực
hiện tại Sài Gòn. Công trình được khởi công từ tháng 9/1862 đến
18/7/1864 hoàn thành gồm nhà nguyện với ngọn tháp nổi bật trên cao xây
theo kiểu Gô-thic, một tu viện, một nhà nuôi trẻ
mồ côi và một tháp chuông. Công trình xây cất này là kết quả nghiên cứu
kiến trúc châu Âu của Nguyễn Trường Tộ khi ông ở Hồng Kông. Qua nhiều
lần sửa chữa trùng tu, ngày nay tu viện thánh Phao-Lô vẫn giữ được đường
nét kiến trúc xưa, chứng tỏ tài năng kiến
trúc của Nguyễn Trường Tộ không thua gì các kiến trúc sư người Pháp.
18.
Người Việt Nam đầu tiên vẽ bản đồ địa lý và đồ họa Sài Gòn theo phương pháp phương Tây
Ông Trần Văn Học, sinh quán ở Bình Dương,
giỏi Quốc ngữ, La-tinh và tiếng Tây Dương, được giới thiệu làm thông
ngôn cho Nguyễn Ánh. Ông phụ trách việc dịch sách kỹ thuật phương Tây,
đồng thời kiêm việc chế tạo hỏa xa, địa lôi và
các loại binh khí. Năm 1790, Nguyễn Ánh xây thành Bát Quái. Trần Văn
Học phụ trách “phác họa đường sá và phân khu phố phường”.
Ông rất có tài vẽ địa đồ, họa đồ và kỹ
thuật bản đồ như: tỷ lệ, trắc địa, và vẽ gần như chính xác các thành trì
và công trình. Ông được coi [như là] người đầu tiên vẽ bản đồ Sài
Gòn-Gia Định theo phương pháp Tây phương.
Bản
đồ Gia Định - Sài Gòn - Bến Nghé do Trần Văn Học vẽ 1815. Khu vực trong
và ngoài thành Bát Quái (Phiên An - trung tâm tâm đô thị Sài Gòn) là
những con đường ngang dọc vuông vức mà hiện chúng ta đang đi. Từ hai
thành Phiên An, Gia Định, các trục lộ chính tỏa
bốn hướng giờ vẫn còn: Hai Bà Trưng (giữa thành, qua Phú Nhuận, xuống
Gò Vấp và quay lại thành), đường Nguyễn Trãi (đi Chợ Lớn), đường Nguyễn
Thị Minh Khai (bên trái thành đi miền Tây, phải thành đi miền Đông, ra
xa lộ Hà Nội, QL1), Cách Mạng Tháng 8 (đi Campuchia),
Nguyễn Tất Thành (đi Q.7, Nhà Bè, Cần Giờ).
Bệnh viện Chợ Quán được xây vào năm 1826 do một số nhà hảo tâm đóng góp, sau đó hiến cho nhà nước. Năm 1954-1957 [Bệnh viện được] giao cho Quân đội và đổi tên thành Viện Bài lao Ngô Quyền. Năm 1974, đổi thành Trung tâm Y tế Hàn-Việt với 522 giường. Tháng 9/1975, mang tên Bệnh viện Chợ Quán. Đến ngày 5/9/1989 chuyển thành Trung tâm Bệnh Nhiệt đới. Hiện nay có 610 Cán bộ-Công nhân viên và 550 giường bệnh.
04.
Nhà hát xưa nhất
Nhà hát thành phố do kiến trúc sư người
Pháp khởi công và hoàn tất vào ngày 17/1/1900. Các phù điêu bên trong
được một họa sĩ tên tuổi ở Pháp vẽ giống như mẫu của các nhà hát ở Pháp
cuối thế kỷ XIX. Nhà hát là nơi trình diễn ca
nhạc kịch cho Pháp kiều xem. Năm 1956-1975, Nhà hát được dùng làm trụ
sở Hạ nghị viện cho các chính phủ Đệ I & II Việt Nam Cộng Hòa; tháng
5/1975 trở thành Nhà hát thành phố với 750 chỗ ngồi. Kỷ niệm 300 năm
Sài Gòn, toàn bộ phần kiến trúc bên ngoài Nhà hát
đã được tu sửa lại như lúc nguyên thủy.
05.
Khách sạn xưa nhất
Khách sạn Continental tọa lạc tại 132-134 Đồng Khởi,
được xây vào năm 1880 do Kiến trúc sư người Pháp thiết kế, tên khách
sạn
có ngay từ những ngày đầu. Sau ngày cướp được miền Nam, khách sạn
Continental bị Bắc Việt đổi thành Hải Âu. Đến năm 1989, khách sạn được
nâng cấp, chỉnh trang và lấy lại tên cũ Continental với diện tích
3430m2, cao 3 tầng, nơi đây đã từng đón tiếp các vị tổng
thống, thống đốc, nhà văn, người mẫu nổi tiếng. Ngày nay, khách sạn
Continental là một trong những khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế.
06.
Nhà thờ xưa nhất
Nhà thờ Chợ Quán tọa lạc tại số
20 Trần Bình Trọng,
P.2 [phường], Q.5 [quận] được xây vào năm
1674 là nhà thờ cổ nhất tại Sài Gòn và cổ nhất ở miền Nam. Ngôi thánh
đường nằm ở vị trí trung tâm, có kiến trúc kiểu phương Tây, lợp ngói đỏ,
có thể chứa khoảng 1000 người. Ngoài việc sinh hoạt tôn giáo, Họ đạo
Chợ Quán tích cực tham gia công tác xã hội giúp
đỡ người nghèo. Trải qua hơn 3 thế kỷ Nhà thờ Chợ Quán đã được trùng tu
nhiều lần. Hiện nay, nơi đây có phòng khám và phát thuốc từ thiện dưới
quyền quản lý của Hội Chữ thập đỏ [Hội Hồng Thập Tự] Quận 5.
07.
Ngôi đình xưa nhất
Một trong những ngôi đình cổ nhất của đất Gia Định xưa và xưa nhất Nam
Bộ là đình Thông Tây Hội, được xây vào khoảng năm 1679, là chứng tích
còn nguyên vẹn nhất của thời kỳ dân Ngũ Quảng kéo vào khai khẩn vùng Gò
đất có nhiều cây Vắp (từ đó trở thành tên địa
phương là Gò Vấp). Đình lúc đầu là của thôn Hạnh Thông–thôn khởi nguyên
của Gò Vấp, sau đổi thành Thông Tây Hội (do sự sáp nhập của thôn Hạnh
Thông Tây (thôn Mới) và thôn An Hội). Đình Thông Tây Hội có vị Thành
Hoàng rất độc đáo. Hai vị thần thờ ở đình là
hai hoàng tử con vua Lý Thái Tổ, do tranh ngôi với thái tử Vũ Đức nên
bị đày đi khai hoang ở vùng cực Nam tổ quốc và trở thành “Thủy tổ khai
hoang” trong lịch sử Việt Nam; hai vị thần đó là: Đông Chinh Vương và
Dục Thánh Vương. Ngôi đình còn giữ được khá nguyên
vẹn về quy mô và kiến trúc, kết cấu, với những chạm khắc đặc trưng Nam
bộ. Đình Thông Tây Hội thuộc P.11, Gò Vấp.
08.
Nhà văn hóa xưa nhất
Cung Văn hóa Lao Động. Năm 1866, với tên
gọi Cèrcle Sportif Saigonnais được xây dựng làm sân thể thao cho các
quan chức người Pháp với những hồ bơi, sân quần vợt, phòng đấu kiếm và
phòng nhảy đầm. Thời Mỹ chiếm đóng, sân chơi được
mở rộng hơn [và] phục vụ cho cả giới quý tộc. Tháng 11/1975, Ủy ban
Quân quản Sài Gòn–Gia Định trao toàn bộ khu này cho Liên đoàn Lao động
Thành phố để biến cải thành khu hoạt động văn hóa thể thao và vui chơi
giải trí cho công nhân lao động, lấy tên là Câu
lạc bộ Lao Động, sau đổi thành Nhà văn hóa Lao Động, và rồi là Cung Văn
hóa Lao Động. Diện tích 2.8ha, với 132 năm hình thành và phát triển,
Cung Văn hóa Lao Động là Nhà văn hóa cổ và lớn nhất của Sài Gòn.
09.
Công viên lâu đời nhất
Thảo Cầm Viên do người Pháp xây vào năm
1864, nhà thực vật học nổi tiếng người Pháp Louis Pierre làm giám đốc
đầu tiên. Mục đích xây dựng Thảo Cầm Viên để ươm cây giống trồng dọc các
đại lộ Sài Gòn, đồng thời là nơi nuôi & trồng
những động & thực vật [thuộc] miền nhiệt đới mà các Thảo Cầm Viên
của Pháp [lúc bấy giờ] chưa có. Năm 1865, chính phủ Nhật đã hỗ trợ
khoảng 900 giống cây quý như: Chizgnamat, Goyamtz, Acamatz, Coramatz,
Kayanoki, Kayamaki, Enoki, Maiki, Asoumaro, Sengni, Momi,
Cashi, Kiaki, Inoki... Động vật của Thảo Cầm Viên khá phong phú như: gà
lôi, sếu, cu gáy, hồng hoàng, công, hưu, nai, cọp, khỉ, chồn hương, tắc
kè, rùa, cọp xám, báo đen, gà lôi xanh, chim cú lợn... Đến năm 1989,
Thảo Cầm Viên được trùng tu, mở rộng và nhận
thêm nhiều giống thú mới, trồng thêm cây quý. Hiện nay, có 600 đầu thú
thuộc 120 loài, 1823 cây gỗ thuộc 260 loài và nhiều loại cây kiểng quý
trên diện tích 21.352m2. Năm 1990, Thảo Cầm Viên là thành viên chính
thức của Hiệp hội các vườn thú Đông Nam Á. Thảo
Cầm Viên đã tròn 134 tuổi, số lượng động & thực vật ngày càng tăng,
nơi đây đã gắn bó với từng bước đi lên của thành phố và là một trong
những công viên khoa học lớn nhất Đông Dương.
10.
Ngôi nhà xưa nhất
Ngôi nhà có tuổi thọ lâu đời nhất còn hiện diện tại Sài Gòn nằm trong khuôn viên Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn, số 180 Nguyễn Đình Chiểu, P.6, Q.3. Năm 1790, Vua Gia Long cho cất
ngôi nhà này ở gần Rạch Thị Nghè làm nơi ở cho Linh Mục Bá-Đa-Lộc và làm
nơi dạy học cho Hoàng tử Cảnh. Ngôi nhà được xây bên bờ sông Thị Nghè
trong địa phận Thảo Cầm Viên bây giờ. Năm 1799,
Bá-Đa-Lộc chết, ngôi nhà được giao cho linh mục khác. Từ năm 1811 đến
năm 1864 ngôi nhà bị đóng cửa vì chính sách cấm đạo của triều đình Huế.
Sau khi vua Tự Đức ký hòa ước với Pháp, ngôi nhà được trao lại cho Tòa
Giám Mục và được di chuyển về vị trí đường
Alexandre de Rhodes hiện nay.
Sau đó năm 1900 Tòa Giám Mục được xây cất
tại 180 đường Richaud (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) thì ngôi nhà gỗ
lại được dời về đây làm nhà thờ của Tòa Giám Mục. Ngôi nhà 3 gian 2
chái, lợp ngói âm dương, sườn, cột bằng gỗ, khung
cửa và các khung thờ đều được chạm trổ công phu [với] hình hoa, lá,
chim thú, hoa văn. Trong các di vật còn lại của ngôi nhà có một di vật
có giá trị lịch sử lớn, đó là đôi liễn gỗ có tám chữ triện khảm xà cừ là
tám chữ vua Gia Long ban tặng giám mục Bá-Đa-Lộc,
một bên là “Tứ Kỳ Thịnh Hy”, một bên là “Thần Chi Cách Tư”.
Ngôi nhà được tu sửa vào năm 1980, cách tu
sửa có tính chất vá víu, cốt giữ lại những gì có thể giữ được. Trải qua
hai thế kỷ ngôi nhà không giữ được nguyên trạng nhưng đây là một di tích
kiến trúc mang dấu ấn lịch sử, tôn giáo
và văn hóa nghệ thuật. Đây là một tài sản có giá trị mà các bậc tiền
nhân đã để lại cho chúng ta, không chỉ là truyền thống - bản sắc dân tộc
mà còn là bộ mặt quá khứ mang tính văn hóa kiến trúc, một khía cạnh văn
minh tại một vùng đất mới mọc lên từ đầm lầy,
kênh rạch.
11.
Ngôi chùa xưa nhất
Ngôi chùa có cảnh trí đẹp nhưng nằm ở địa điểm không tiện đi lại nên được ít người biết đến, [đó] là chùa Huê Nghiêm, tọa lạc ở 20/8
Đặng Văn Bi, Thủ Đức. Chùa được thành lập năm 1721 do Tổ Thiệt Thùy
(Tánh Tường) khai sáng. Tên chùa lấy từ tên bộ kinh Hoa Nghiêm. Đây là
chùa cổ xưa nhất trong các chùa ở TP Sài Gòn nên còn gọi là Huê Nghiêm
Cổ Tự. Những ngày đầu là một ngôi chùa nhỏ
được xây cất trên vùng đất thấp cách địa thế chùa hiện nay khoảng 100m.
Sau đó, Phật tử Nguyễn Thị Hiên pháp danh Liễu Đạo cúng đất để xây lại
ngôi chùa rộng rãi khang trang như hiện nay.
Qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1960,
1969, 1990 mặt tiền chùa ngày nay mang dáng vẻ kiến trúc của chùa hiện
đại nhưng các gian phía trong vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ truyền, mái
gian mặt tiền được cấu trúc gồm 3 lớp, nhỏ dần
về phía trên. Các đường gờ mái chạy dài xuống cuối đầu đăng đều trang
trí bằng hoa văn hình cánh sen đối xứng, giữa là hình bánh xe luân pháp,
đặt trên hoa sen. Mái lợp ngói ống màu đỏ, đường viền mái ngói màu
xanh.
Vườn chùa có nhiều cây xanh bóng mát, có 9
ngôi tháp cổ với nhiều kiểu dáng khác nhau như những cánh sen vươn lên.
Những hàng cột gỗ trong chùa được khắc nổi các câu đối bằng chữ Hán màu
đen kết hợp với việc chạm khắc mô típ “long
ẩn vân” dùng trang trí.
Chùa Huê Nghiêm là một di tích Phật giáo
quan trọng, là nơi dừng chân, sống đạo và hành đạo của nhiều vị danh
tăng uyên thâm Phật pháp, có đạo hạnh và có đạo đức. Chùa cũng là bằng
chứng về trình độ kiến trúc và phong tục tập quán
của người Việt trên vùng đất mới khai phá, mở ra nền văn minh trên vùng
đất hoang sơ.
12.
Đường sắt đầu tiên ở thành phố
Tuyến đường sắt đầu tiên ở nước ta là đoạn
đường sắt Sài Gòn–Mỹ Tho dài 71km, được xây vào năm 1881. Ga chính trước
chợ Bến Thành, văn phòng đường sắt là tòa nhà 2 tầng chiếm cả khu đất
bao bọc bởi ba đường Hàm Nghi–Huỳnh Thúc Kháng–Nam
Kỳ Khởi Nghĩa, nay là Xí nghiệp Liên hợp đường sắt khu vực 3. Xe lửa
chạy bằng máy hơi nước phải dùng than củi đốt nồi súp-de nên xe chạy khá
chậm. Vì không cạnh tranh nổi với xe đò trong việc chuyên chở hàng hóa
và hành khách, đường xe lửa Sài Gòn–Mỹ Tho
đã ngưng hoạt động từ lâu. Sau năm 1975, Ga xe lửa Sài Gòn được dời về
Ga Hòa Hưng. Vào ngày 8/8/1998, người ta khởi công xây cất Trung Tâm Văn
Hóa Thương Mại Sài Gòn trên nền Ga Sài Gòn cũ.
13.
Người Việt đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp
Ông Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Năm 1859,
Pháo hạm Pháp bắn vào cửa biển Đà Nẵng và thành cũ Gia Định, triều đình
nhà Nguyễn bắt buộc chấp nhận mở cửa đất nước cho tư bản thực dân Pháp
xâm nhập. Trong giai đoạn lịch sử mới, người
Việt Nam từng bước tiếp xúc với ngôn ngữ và văn minh mới. Trương Vĩnh
Ký là một trong những người sớm tiếp xúc và hấp thụ ngôn ngữ văn hóa
phương Tây đã trở thành học giả có nhiều sáng tác nhất bằng cả tiếng
Pháp và tiếng Hán–Việt. Ông là người Việt Nam đầu
tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp. Cuốn “Giáo trình lịch sử An Nam”
đã được xuất bản gồm hai tập dày 462 trang. Đây thực sự là một công
trình bác học biên soạn công phu dưới ánh sáng của một phương pháp luận
khoa học tiến bộ so với đương thời.
14.
Tờ báo bằng chữ Quốc Ngữ đầu tiên
Tờ
“Gia Định Báo” là tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở nước ta ra đời tháng
4/1865.
Tờ báo đăng những thông tin nghị định của nhà nước và những tin kinh tế
xã hội, lời bàn về thời cuộc, luân lý, lịch sử. Báo ra hằng tháng. Sau 4
năm phát hành, chính quyền thuộc địa cho phép báo phát hành hàng tuần
bằng quyết định số 51 ngày 18/3/1869.
15.
Tờ báo đầu tiên của Phụ nữ Việt Nam
Ngày 1/2/1918 tờ báo chuyên về Phụ nữ đầu
tiên ra đời là tờ “Nữ Giới Chung” nhằm nâng cao trí thức, khuyến khích
công-nông-thương, đề cao người Phụ nữ trong xã hội, chú trọng đến việc
dạy đức hạnh, nữ công, phê phán những ràng buộc
đối với Phụ nữ, đánh đổ mê tín dị đoan, động viên Phụ nữ quan tâm đến
việc “Nữ quyền”. Muốn có vị trí ngang hàng với nam giới ngoài việc tề
gia nội trợ phải am hiểu “tình trong thế ngoài”.
Chủ bút tờ báo là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh,
con gái nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, vốn có lòng yêu nước, yêu
thương đồng bào như thân phụ nên khi làm báo Bà có ý muốn làm diễn đàn
để tỉnh thức lòng yêu nước trong dân chúng. Tuy
chỉ tồn tại được hơn 6 tháng nhưng “Nữ Giới Chung” cũng đã gióng lên
một hồi chuông nữ quyền còn vang mãi đến ngày nay.
16.
Cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên
“Đại Nam Quốc
Âm Tự Vị” là cuốn từ điển tiếng Việt quốc ngữ La-tinh của Huỳnh Tịnh
Của gồm hai tập: Tập I xuất bản năm 1895, tập II xuất bản 1896 tại Sài
Gòn. Bộ từ điển chứa nhiều từ ngữ xưa, thành
ngữ, tục ngữ, từ ngữ về thảo mộc, cầm thú của Việt Nam và của miền Nam.
Bộ từ điển này trở thành Từ điển Bách khoa toàn thư đầu tiên về Nam Bộ.
17.
Người kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên
Ông Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) người làng
Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Gia đình ông theo đạo Thiên
Chúa, ông giỏi chữ Nho, thông hiểu Ngũ Kinh Tứ Thư, học chữ Quốc ngữ và
chữ Pháp với các giáo sĩ. Ông được giám mục
Gauthier đưa sang Paris năm 1858. Ông am hiểu chính trị, kinh tế, quân
sự, ngoại giao, pháp luật. Năm 1861 ông trở về nước, tàu ghé Sài Gòn thì
nơi đây đã đổi chủ, ông buộc phải làm phiên dịch cho người Pháp.
Trong lúc ở Sài Gòn, ông đã đứng ra xây cất tu viện dòng thánh Phao-lô.
Đây là công trình xây cất theo kiến trúc Châu Âu do người Việt Nam thực
hiện tại Sài Gòn. Công trình được khởi công từ tháng 9/1862 đến
18/7/1864 hoàn thành gồm nhà nguyện với ngọn tháp nổi bật trên cao xây
theo kiểu Gô-thic, một tu viện, một nhà nuôi trẻ
mồ côi và một tháp chuông. Công trình xây cất này là kết quả nghiên cứu
kiến trúc châu Âu của Nguyễn Trường Tộ khi ông ở Hồng Kông. Qua nhiều
lần sửa chữa trùng tu, ngày nay tu viện thánh Phao-Lô vẫn giữ được đường
nét kiến trúc xưa, chứng tỏ tài năng kiến
trúc của Nguyễn Trường Tộ không thua gì các kiến trúc sư người Pháp.
18.
Người Việt Nam đầu tiên vẽ bản đồ địa lý và đồ họa Sài Gòn theo phương pháp phương Tây
Ông Trần Văn Học, sinh quán ở Bình Dương,
giỏi Quốc ngữ, La-tinh và tiếng Tây Dương, được giới thiệu làm thông
ngôn cho Nguyễn Ánh. Ông phụ trách việc dịch sách kỹ thuật phương Tây,
đồng thời kiêm việc chế tạo hỏa xa, địa lôi và
các loại binh khí. Năm 1790, Nguyễn Ánh xây thành Bát Quái. Trần Văn
Học phụ trách “phác họa đường sá và phân khu phố phường”.
Ông rất có tài vẽ địa đồ, họa đồ và kỹ
thuật bản đồ như: tỷ lệ, trắc địa, và vẽ gần như chính xác các thành trì
và công trình. Ông được coi [như là] người đầu tiên vẽ bản đồ Sài
Gòn-Gia Định theo phương pháp Tây phương.
Bản
đồ Gia Định - Sài Gòn - Bến Nghé do Trần Văn Học vẽ 1815. Khu vực trong
và ngoài thành Bát Quái (Phiên An - trung tâm tâm đô thị Sài Gòn) là
những con đường ngang dọc vuông vức mà hiện chúng ta đang đi. Từ hai
thành Phiên An, Gia Định, các trục lộ chính tỏa
bốn hướng giờ vẫn còn: Hai Bà Trưng (giữa thành, qua Phú Nhuận, xuống
Gò Vấp và quay lại thành), đường Nguyễn Trãi (đi Chợ Lớn), đường Nguyễn
Thị Minh Khai (bên trái thành đi miền Tây, phải thành đi miền Đông, ra
xa lộ Hà Nội, QL1), Cách Mạng Tháng 8 (đi Campuchia),
Nguyễn Tất Thành (đi Q.7, Nhà Bè, Cần Giờ).