7 LOẠI "SƠN HÀO HẢI VỊ" DÀNH CHO VUA CHÚA THỜI XƯA
Xưa kia, những món ăn ngon, độc đáo hay đặc sản ở mỗi vùng luôn được đem cung tiến vua. Đó là những món ăn mang nhiều chất dinh dưỡng, quý hiếm và vô cùng thơm ngon.
1. Cá Anh Vũ
Cá
Anh Vũ là một trong những loài cá quý hiếm, được coi là sản vật tiến
vua thời xưa. Theo một số tài liệu ghi lại, vào thời Hùng Vương thứ ba,
một ngư dân bắt được một con cá lạ ở khu vực ngã ba sông Việt Trì - nơi
hội tụ của ba con sông lớn - sông Thao, sông Lô, sông Đà.
Chú
cá mình vảy xanh óng ánh, bụng vẩy trắng, vây đỏ, môi giống môi lợn.
Thấy lạ, ngư dân này đem tiến vua, khi ăn, vua thấy thịt cá vừa ngọt
đậm, có vị thơm khác hẳn loài cá khác, ăn xong thấy người khoan khoái
nên chỉ dụ nếu ai bắt được loài cá này thì đem tiến vua.
Hiện
nay, loài cá này được tìm thấy nhiều ở vùng sông hồ có nước trong sạch
Tây Nguyên nhưng với số lượng khá hiếm. Cá Anh Vũ có kích thước trung
bình, dài khoảng 31 - 67cm, thân dày, thuôn dần phía đuôi, có hai đôi
râu, trọng lượng có thể lên tới 5kg. Thân cá màu xám tro, bụng màu vàng
nhạt, có môi dưới rộng hình tam giác, với nhiều gai thịt tròn nổi.
Thức
ăn của loài cá này chủ yếu là tảo lục, tảo khuê và các loại động vật
không xương sống nhỏ sống dưới nước bằng cách dùng môi cạo thức ăn bám
trên đá. Theo những ngư dân lão luyện, chính chiếc “môi lợn” ấy chính là
bộ phận ngon nhất và đắt nhất của cá Anh Vũ.
Do
số lượng cá hiện không còn nhiều nên một vài địa danh đã nghiên cứu
nhằm nhân giống loài vật này. Giá thành của cá Anh Vũ khá cao, khoảng 2 -
3triệu/kg cá nhưng vẫn không có cá để bán.
2. Mắm tép Hà Yên
Đây
là một đặc sản quý và độc đáo ở vùng chiêm trũng xứ Thanh, trong đó nổi
tiếng nhất là hai làng Đình Trung và Yên Xá thuộc xã Hà Yên, huyện Hà
Trung. Công việc làm mắm tép đòi hỏi phải theo mùa, khi tép ngon, béo
nhất.
Khi
trước, để làm được mắm tiến vua, các chức sắc trong làng phải chọn
người có kinh nghiệm đánh bắt tép và phải bầu đoàn thê tử ra tận khe Gia
Giã ở làng Cổ Đam (Vùng Bỉm Sơn hiện nay) đánh loại tép riu, thân trong
suốt sống trong bàu nhiều rau rong. Chỉ có loại tép này mới cho nước
cốt thơm ngon.
Quy
trình làm mắm tép đã cầu kỳ, nhưng việc bảo quản còn phức tạp hơn gấp
bội phần. Sau khi nấu mắm, người xưa dùng giấy bản để bịt miệng lọ. Cứ
một lớp giấy bản lại quết một lớp vôi dẻo, làm nhiều lần cho thật kín
thật dầy, ghi nhớ ngày lên thành vò để qua một đêm mới đem ủ trong tro
bếp.
Chừng
năm tháng đến nửa năm, mắm chín mới đem ra dùng. Khi chín nước cốt dâng
lên trên, chỉ việc chắt lọc qua lớp vải bông sạch, sẽ được lọ mắm cốt
tuyệt hảo.
3. Sâm cầm hồ Tây
Là
một loài chim di cư từ phương Bắc, sống thành đàn ở những nơi có nước
như ao, hồ, nơi có nhiều thủy sinh, chim sâm cầm được biết đến như một
loại thực phẩm quý hiếm chỉ dành cho các bậc vua chúa thời xưa.
Tương
truyền, loài chim này có tên sâm cầm bởi chim ăn nhiều sâm quý trên núi
nên thịt chim được coi là vị thuốc đại bổ. Chim có kích cỡ vừa phải,
nặng khoảng 0,5 - 0,8kg, thân bầu, nhỏ hơn con vịt trời.
Đầu
và cổ chim phủ lông đen, mắt đỏ, mỏ nhọn màu vàng nhạt, mào màu trắng
ngà, đôi cánh ngắn phớt tím. Chân chim cao, có màu lục xám nhạt với 4
ngón, 2 ngón giữa có 3 đốt, 2 ngón bên có 2 đốt; các ngón đều có màng
mỏng khá rộng.
Nhiều
tài liệu ghi lại cho thấy, chim sâm cầm là sản vật tiến vua của vùng Hồ
Tây từ năm Tự Đức thứ 17 đến năm Tự Đức 24. Thịt chim mềm, màu đỏ tươi,
chế biến thành nhiều món cầu kì dâng vua. Do khai thác nhiều nên số
lượng chim sâm cầm ngày nay cực hiếm, giá cả của loại chim này cũng ở
mức 1,8 triệu đồng/kg.
4. Gà Đông Tảo
Gà
Đông Tảo hay gà Đông Cảo là một giống gà đặc hữu và quý hiếm của Việt
Nam. Đây là giống gà nuôi cổ truyền của xã Đông Tảo thuộc huyện Khoái
Châu, tỉnh Hưng Yên.
Đặc
điểm nổi bật của loại gà này là cặp chân xấu xí, đôi chân to và thô như
chân voi, khi trưởng thành có thể nặng trên 4,5kg (gà trống) và trên
3,5 kg (gà mái).
Gà
Đông Tảo thường nặng từ 5 - 7kg/con, đầu hình gộc tre, cánh như hai con
trai úp, đuôi như nơm úp cá, da đỏ, chân to sần sùi như chân voi.
Theo tương truyền, người dân xưa thường dùng gà Đông Tảo để cúng tế, hội hè, hay tiến Vua bởi mùi vị thơm ngon đặc biệt.
Thịt gà Đông Tảo thơm ngon, đặc trưng không lẫn với bất kỳ loại gà nào.
Phần
thịt gà ngọt với khối lượng thịt ức nhiều, đỏ hồng, bắp đùi gà có nhiều
bó cơ cuồn cuộn, không có gân, không dai. Sở dĩ gà Đông Tảo có phần
thịt thơm ngon là bởi gà được thả chạy nhảy, không bị nuôi nhốt, ăn cám
tự nhiên nên thịt săn chắc.
Gà
Đông Tảo thuần chủng có đặc điểm thân hình to lớn, chân to nặng trịch,
xù xì, bao quanh chân ở phía trước là một lớp vảy da sắp xếp không theo
hàng, phần còn lại da sùi giống bề mặt trái dâu tằm ăn, bốn ngón chân
xòe ra, chia ngón rõ nét, bàn chân dày, cân đối nên gà bước đi vững
chắc.
Tuy
nhiên, giá thành của loại gà Đông Tảo thuần chủng thuộc loại cao. Mỗi
kg gà Đông Tảo xuất tại vườn có giá khoảng 600.000 - 1 triệu đồng/kg tùy
loại. Với những chú gà trống Đông Tảo thuần chủng có tướng đẹp, chân
to, oai vệ từ 4 - 5,5kg/con có giá 5 - 10 triệu đồng và có thể cao hơn.
Hiện,
gà Đông Tảo thuộc danh sách các giống gia cầm quý hiếm của Việt Nam,
đang được bảo tồn nguồn gene nhằm duy trì và phát triển giống gà quý
này.
5. Sá sùng
Ít
ai biết rằng, từ thời xưa, sá sùng được khai thác để làm cống vật cho
vua, quan hay chỉ có những người giàu có mới đủ điều kiện sử dụng bởi
công dụng đặc biệt trong việc tăng cường sinh lực.
Loài
vật thân mềm này chỉ sống tại những bãi cát ven biển trên đảo Quan Lạn
và Minh Châu (Quảng Ninh) và chỉ được khai thác vào tháng 3 đến tháng 7.
Khi
còn tươi, sá sùng có độ dài khoảng 5 - 10cm. Cá biệt có con dài đến 15 -
40cm, nặng từ 1- 3kg. Khi bị bắt lên khỏi mặt biển, chúng thu mình lại,
tròn như một quả bóng, cái miệng bé như lỗ van bơm hơi. Lớp da sá sùng
thay đổi màu sắc tùy theo môi trường ở, nếu dùng tay sờ vào thấy mềm và
mát.
Sá sùng có hình dạng na ná như một con giun khổng lồ, sống trong những hang đá, khe cát.
Ngoài
công dụng chữa bệnh, sá sùng còn được dùng để chế biến thuốc hay nấu
nước phở cho ngọt, nấu nước dùng ngon cho nhiều món trong dịp Tết.
Tuy
nhiên, việc khai thác sá sùng không phải đơn giản. Cư dân biển chỉ có
thể dùng mai để đào, chứ không dùng được các loại máy móc hỗ trợ nào. Có
lẽ chính bởi nguồn khai thác không lớn và thủ công nên giá của một kg
sá sùng dao động khoảng 3,5 - 4 triệu đồng/kg.
6. Yến sào
Được
làm từ nước dãi của những con chim yến, yến sào (tổ chim yến) là một
đặc sản có hương vị rất hấp dẫn và giá trị dinh dưỡng cao.
Từ
thời xưa, yến sào đã được khai thác tại các đảo Yến ở ngoài khơi tỉnh
Khánh Hòa để cung tiến các vua chúa. Yến sào có thể được chế biến thành
nhiều món như nước yến, huyết yến, chè yến, súp yến. Ngày nay, cơ hội
thưởng thức sản vật này vẫn nằm ngoài khả năng của đa số người dân Việt
Nam bởi giá thành của chúng rất cao, từ 50-60 triệu đồng/kg. Phần lớn
yến sào khai thác được xuất khẩu để thu ngoại tệ.
7. Rau muống Linh Chiểu
Chuyện
kể rằng, nhà vua đi ngang qua xứ này được dân thết đãi đặc sản rau
muống. Màu sắc, hương vị mộc mạc nhưng hài hòa từ món ăn dân dã này đã
hấp dẫn các giác quan của nhà vua. Từ đó, theo lệ hằng năm khi vào vụ,
người dân nơi đây hái rau làm vật phẩm để tiến vua.
Cách trồng rau muống tiến vua khá kỳ công.
Rau
ở đây chịu thời tiết kém hơn các loại khác. Mỗi ngọn rau phải cách nhau
đến 40 cm, trong khi rau muống thường thì khoảng cách 15 cm là đủ. Rau
muống ở đất này có hương vị đặc biệt vì được trồng trên vùng có mạch
nước sủi và dải đất phù sa màu mỡ từ sông Hồng.
Rau
có màu trắng, sau khi luộc có màu xanh nhạt, ăn có vị ngọt. Nếu xào mỡcho thêm một vài lát tỏi đập dập thì rau có một vị rất đặc trưng. Ngon
hơn cả là muống làm nộm bởi thân rau giòn và xốp. Rau muống Linh Chiểu
không hề chát, ăn giòn, vị đậm đà. Dù cách chế biến thế nào thì rau giữ
nguyên màu xanh và vị giòn ấy.
Giống
rau quý ấy vẫn còn được duy trì đến ngày nay. Với nhiều người dân trong
làng, rau muống Linh Chiểu không chỉ đơn thuần là thực phẩm để ăn, để
bán mà còn trở thành một thứ quà quý để mang biếu...