NHỮNG CẦM GIỮ BỌT-BÈO…
*Tạp-bút Nguyễn-Tư
Ngồi một mình trong góc một quán cà-phê Tây vắng ngắt, ở một vùng không thấy một người tóc đen nào, hắn có cảm-giác lạc-lõng - một thứ lạc-lõng bình-yên…Bên cạnh hắn, một cặp tình-nhân Úc hãy còn trẻ, cả hai đều có vẻ “bụi”. Họ mặc Jeans xanh bị xé nát ở hai đầu gối, ôm nhau hôn như thể khu phố này là của hai người. Người Tây-phương có thứ hạnh-phúc tự-nhiên đó - tự-nhiên như chính mình cầm cái kéo mà khoét 2 cái lỗ rách trên quần nơi đầu gối cho nó có vẻ nghèo nàn xơ-xác... khác với lớp người Việt-Nam của hắn sau 75 bên kia bờ Thái-bình-dương, họ lại chẳng bao giờ dám quì xuống đất khi mặc Jeans hiệu “Lee” này rất đắt tiền vì sợ rách hai cái đầu gối quần đó, ngay chính như bản thân hắn sau khi tù về được người bà con ở Mỹ gửi cho cái quần Jeans xịn này để mặc mà lao-động cho chắc, nhưng hắn chỉ để dành đem bán cho đám con buôn chợ trời lấy tiền đong gạo, làm gì dám xé quần nơi 2 đầu gối cho xác-xơ như ở đây....? Vậy thì, cái thứ chân-lý của ông Pascal ngày xưa muốn lấy dãy núi Pyrénées làm giới-hạn: “Buồn cười thay cho thứ Công lý lấy con sông làm giới hạn, bên này dãy Pyrénées là Chân lý và bên kia là sai lầm – erreur au delà ...”... thì nó có khác gì cái biển xanh ở thời-đại này đâu?
Hắn kêu
một tách cà-phê đen và một gói Dunhill màu đỏ, loại 20 điếu
cho nó mặn-mà với nồng-độ 1.6 mg Nicotin, đủ để gây những
nhức-nhối trên những tế-bào thần-kinh, vốn đã chai-lì hai bên thái-dương. Hắn buồn cười một mình khi cầm gói thuốc lên xem, thấy câu ghi của nhà sản-xuất: “Warning: Smoking is a health hazard!”, hắnkhông hiểu ông Giám-đốc công-ty thuốc lá này, đã nghĩ gì khi ông cho in câu đó lên mặt trước (chắc
là do bộ Y-tế bắt buộc) nơi dễ thấy nhất của gói thuốc lá, trong
lúc ông phải chịu tốn thật nhiều tiền để trả cho những
quảng-cáo của ông hàng ngày trên các mặt báo hay các băng-tần
truyền-hình rằng thuốc ông thơm ngon, nên mua mà hút càng nhiều càng tốt?!
Thì ra cuộc đời nó vẫn mải-miết trôi với những mâu-thuẫn
tự-tại của nó, mà không ai thắc-mắc, khiếu-nại gì, có lẽ vì
nó phải xảy ra như thế, không lạ mặt, không ngạc-nhiên…Con
người sống trong đó, phải tập thích-nghi từng phút từng giây,
như cái màu xanh đỏ trên
lưng con tắc-kè vào những ngày trở nắnǵ, như tình-cảm của
những con người, luôn đổi thay theo những biến-số
xung-quanh... không hề có một “hằng-số k” nào cho cuộc đời này cả! Mới ngày qua đây, trời Liverpool – nơi hắn đang làm việc, nắng cháy da người. Viên phấn chạy dài trên bảng đen cũng ngòng-ngoèo theo những cơn gió nóng như thiêu. Nghề “thầy” đã kéo dài ra, khởi đầu từ những năm mới bước vào đời với giờ dạy khai-tâm cho các lớp 12 bên nhà: “Triết học là gì?… mà
hôm nay ngồi đây, nhìn những cơn mưa rả-rích trên từng phiến lá
cây sao rách tả-tơi, cách nơi khởi đầu xa-xưa hết gần nửa
đường kinh-tuyến trái đất… mà hãi-hùng....
Từng
hạt đường tan ra, xóa nhòa dần những vị đắng, vừa đủ để đầu
lưỡi nắm cầm một thứ hạnh-phúc mơ-hồ, không rõ nét, giống
như hạnh-phúc của kẻ mộng-du…Trời vẫn tiếp-tục những cơn mưa
đầu mùa từ đêm qua. Mặt lộ phẳng-phiu với những chiếc lá vàng
mắc cạn trên những làn cát mịn-màng. Không-khí trở nên
mát-mẻ kỳ lạ. Ông già Úc bụi đời vẫn ngồi ngủ ngon nơi chiếc
ghế dài dưới một gốc cây, áo quần xốc-xếch, chiếc mũ nỉ che
đi hết phân nửa khuôn mặt sần-sù, làm nổi bật dây nịt quàng
chung quanh cổ, giống như cổ của một con chó cưng ở đây, hay
bi-thảm hơn giống sợi dây thòng-lọng của chàng sinh-viên nghèo
trong cuốn phim “La Vérité”(sự thật)được chiếu ở Nha-Trang mà hắn từng coi khi còn là học-sinh trung học ở tuổi mới lớn với nhiều trăn trở băn khoăn về đời sống , về tình yêu.... cách đây đã mấy chục năm rồi… Cạnh đó, trên vỉa hè trước ngân-hàng Westpac,một người đàn ông khác hát dạo ốm tong-teo - biểu-tượng nghịch-đảo của người Úc nơi đây rất sợ những lớp mỡ mà con số thống-kê hơn 60% overweight đã làm nhà cầm quyền e ngai
phải quảng-cáo liên-miên trên TV khẩu-phần mỗi ngày phải là 3 phần rau,
hai phần quả… để cân bằng sức khỏe cho người dân xứ thừa mứa thực phẩm
này (!) Người đàn ông này ở trần trùng-trục, nhảy loạn xạ theo một
điệu nhạc Rock, mà hắn tự pha chế, chẳng ăn nhậu gì với
tiếng khẩu-cầm mà hắn còng lưng thổi liên-tu, rồi hắn lại cầm
lên một con rối hình thù kỳ-dị, với những sợi dây chuyền qua
một cái cần, mà hắn tự bóp theo tiếng hát đặc khàn không có
vẻ gì là chuyên-nghiệp cả.Con rối cũng nhảy theo hắn không theo
một nhịp hát nào coi cho được mắt, bên chiếc mũ lật ngửa chẳng có đồngnào, dù chung quanh hắn vẫn đầy những mái tóc hoe lô-nhô đứng xem… Nhưng điều dễ thương nhất nơi hắn, có lẽ là những nụ cười khi hắn cầm cái mũ rỗng không có xu teng nào của người xem quăng vào ... đội lên đầu tỉnh queo mà không hề lộ vẻ bất mãn nào, rồi lại lấy áo mặc vào, ngồi bệch xuống vỉa hè hổn-hển thở… nhưng nụ cười tươi vẫn tiếp-tục nở trên môi… cười về lòng hẹp-hòi, ăn gian của bá-tính (đứng quanh xem hắn biểu diễn mà lại không buông cắc nào) hay cười cái cảnh ăn xin cũng rất khốn-nạn của chính mình…?!
Điếu thuốc tàn, những hạt tro xám-xịt như bầu trời hôm
nay. Chiếc thìa nhỏ quậy-quậy, xoay tròn như một thói quen không
có sự kiểm-soát của lý-trí. Âm-thanh mỏng và khô của kim-khí
cọ vào thành chiếc tách sứ, làm nhớ những chiều mưa ngồi một
mình ở quán “Cà-phê Tùng” Đà Lạt nằm trên đường Hàm-Nghi đầy những ổ gà nước đọng. Năm đó hắn vừa đúng lớp 12 - lớp
của sắp giã-từ thời học trò mộng-mị, trong đó có bóng dáng
cô giáo Nguyễn-Thị-Hoàng vẫn cứ mái tóc dài nữ-sinh như những ngày thùy-dương cát trắng, vẫn áo nguyệt-bạch, đài-các bước qua những vạt nắng chiều trên sân bóng rổ của trường Trần-Hưng-Đạo - nơi hắn từ
dưới Nha Trang lên học lớp cuối Trung học chưa đầy một năm thì đã ra
đi lặng-lẽ trước sự ngẩn-ngơ của bạn bè mà họ không hề được chia tay
và cũng chả hiểu vì sao? Cũng chính nơi đây, trong thời kỳ này, cuốn “Vòng tay học trò̀”của
Cô Hoàng đã khởi sự, làm xôn-xao Miền-Nam một thời tình-tự. Cô
vẫn mỉm cười hiền-hậu trên ngọn đồi trường Võ-Bị ngày khai-giảng khóa 20, mà cô làm Trưởng phái đoàn của 2 lớp 12 được ngôi trường Quân sự lớn nhất Á châu này mời tham-dự hầu “dụ” bọn học sinh đang rất thơ mộng của năm cuối trung học vào cái lò bát quái thời chiến tranh bốc lửa này...Hắn nhớ, khiấy cô
chỉ đi chân không vì một chiếc guốc đã gãy đôi. lúc từ trên xe
GMC bước xuống với tiếng cười của đám học trò rộ lên trong
lời giễu-cợt từ tên một cuốn phim nổi tiếng vừa mới chiếu ở
Đà-lạt thời đó tên: “La Comtes se aux pieds nus…”(Bà Bá-tước chân không).Với nụ cười hóm-hỉnh của cô khi cô cố-tình sửa lại: “Bà Hoàng(Bà Vua) đi chân không”… Lúc đó hắn không học bà, vì bà là Giáo-sư cấp dưới, nhưng lại phụ-trách Văn-nghệ của toàn trường, nên thỉnh-thoảng gặp nhau, bởi hắn là trưởng ban Văn nghệ của lớp. Với Đà Lạt hắn chỉ có một thời-gian rất ngắn, nhưng lại cưu-mang những kỷ-niệm buồn dài lâu,đôi khi muốn hết cả một đời người…
Trời vẫn tiếp-tục những cơn mưa, và hắn vẫn
tiếp-tục nhìn từng hạt nước vỡ trên mặt đường, rồi mất hút
trên mặt nhựa đen, như những chặng đời chồng lên nhau, giống
những lớp băng quấn quanh một vết thương, được tháo gỡ từ-từ,
với những giọt máu khô bám chặt trên từng chiếc lỗ của miếng “gaze”, kết dính, kéo theo những đau nhức không cùng…Hắn đã
đến Úc được 5 năm rồi, nghĩa là đã xóa đi sự sống của đời
mình trong chừng đó thời-gian, mà phải nhân thêm những điều
hệ-lụy. Nói một cách khác hơn… là tháng ngày sống thì ngắn lại, mà những buồn tủi lại dài ra…
Mới ngày qua, hắn có nhận được lá thư của một người - một người còn nhỏ, mà lại thích mang những niềm ưu-tư lớn cái tuổi của mình! Thư không ghi tên và địa-chỉ
người gởi, có nghĩa là người nhận phải đón lấy những điều
mà mình không được phép tự-vệ. Nét chữ trong thư rất lạ, bởi
nó đã không được “quen” cộng với khoảng thời-gian lâu đủ
bào mòn những ký-ức. Người đọc phải cần đợi đến hết cái
thư, mới định-vị nổi người viết là ai? Trong cái khoảng
trí-nhớ mù-mờ, bởi những phế-hưng của tình-cảm hẹp dần theo
những địa-chỉ đã được bôi đi trong cuốn sổ tay! Trong thư không
hề thấy một chữ nào vui, kể cả những chữ nói về nụ cười. Đặc-biệt những dấu chấm câu đều là dấu “hỏi”, nếu không là những dấu chấm “than” - loại dấu dành riêng cho những người không tìm thấy hạnh phúc ở đời này?Những mệnh-đề phụ, người viết thường sử-dụng những chữ “vậy mà…vậy mà..” có
nghĩa rằng, muốn bắt một điều gì đó đừng đổi thay, khi họ
thực tình là những biến-số, biến-số được lũy-thừa lên trên lòng ích-kỷ vô-biên, mà không bao giờ họ nhận chịu như một lỗi-lầm, dù những lỗi-lầm chỉ được biện-hộ bằng những tiếng “tại vì…tại vì…”. Hắn nhớ người này có lần khoe với hắn: “Anh có tin rằng mỗi ngày đi tàu lửa đến sở làm, em đều mang theo cuốn “D.X” của anh trong cặp không, và mỗi chữ trong cuốn sách ấy là những mảnh thủy-tinh vỡ, cứa vào mạch máu của trái tim em ứa ra... ” … thì hắn giựt mình nói thành thực vẻ ân-hận: “Em đừng làm vậy, tôi đau, tôi không vui đâu, em sẽ bị điên chữ đó, tôi sorry em… và nếu như máu tim người đọc mà thế thì máu người viết ra nó đã khô từ lâu...”
Trời vẫn tiếp-tục những cơn mưa, những cơn mưa dai-dẳng, lầy-nhầy.
Ly cà-phê đã lạnh. Chiếc muỗng lật ngửa hớ-hênh, nằm
bất-động trên mặt bàn. Một vài con ruồi bay đến đậu, đôi chân
sau ve-vẩy lên trời, cắm đầu hút những giọt ngọt dính trên
lớp mặt nhôm trắng nhờ-nhờ… Chúng vẫn không được yên-tâm, khi
nghe tiếng động của đồng-loại chập-chờn bên trên, có lẽ vì
chúng đã có quá nhiều kinh-nghiệm về lòng phản-phúc, sự giành giựt, làm cho hắn khám-phá ra rằng: Nơi nào có bon chen đời-sống, thì nơi đó có những xấu-xa…Cho nên, những yêu dấu rồi cũng bọt-bèo, và những nhớ thương trước đây rồi cũng sẽ trở-thành thù-hận...
Suốt đêm qua, hắn nằm không ngủ được, trở mình hoài theo những cơn mơ ma quái kinh-khiếp, mồ-hôi vã ra trên trán, mệt nhoài… Hắn đành ra
ngồi trên một thùng gỗ phía sau nhà, nhìn sang dãy phố bên kia
thấy im phăng-phắc. Những hạt mưa bay qua những sợi dây điện
chùng xuống đen ngòm, dưới cái bóng đèn đỏ lưỡng treo trên
những cột điện bằng cây dầu ở thế-kỷ 20 của xứ mệnh danh là “lucky country”!Cuộc-sống cơm áo đóng khung trong những giới-hạn hẹp dần, luôn-luôn bị đe-dọa bởi những bất-ngờ, như những câu kỳ thị ra mặt:“Asians out” hay “Kill all Asians” do người Úc da trắng viết trên khắp những bờ tường hai bên đường xe lửa ở đây, làm hắn có cảm-tưởng như mình không còn đất đứng, khi nhìn về bên kia mình là cặn bã mà bên này mình lại là những đuổi xô ...và hắn bỗng sợ-hãi con người còn hơn những Thiên-tai!
Cú phone viễn-liên từ đầu hôm của người bạn Văn vốn dân Trung-kỳ duy-nhất ở đây,dù anh ta học Toán nhưng lại mê Văn chương …làm hắn bùi-ngùi
nhớ lại buổi gặp đầu cách đây khoảng một năm. Con phố nhỏ
Bankstown không đủ cho câu chuyện trải dài, phải qua không biết
bao nhiêu quán cà-phê để lấp đầy khoảng thời-gian từ 8 giờ
sáng đến 4 giò chiều, với đủ thứ chuyện, kể cả chuyện
tiếu-lâm, mặc dù dân Trung-kỳ không thích “nhiều lời”.
Chính sự thân-tình này, đã khiến cho những kẻ sẵn mang trong
lòng một thứ mặc-cảm tự-ti nào đó lại nghĩ rằng: “Chúng nó thân nhau chỉ vì từng là những thằng khoa-bảng”.
Thực-sự khoa-bảng chẳng là yếu-tính để tạo nên những
tình-cảm con người, mà nó chỉ có giá-trị về mặt
kiến-thức, cũng rất cần cho những người chọn chữ nghĩa để rong
chơi, bởi vì người thưởng ngoạn sẽ chẳng bao giờ chấp-nhận
những suy-nghĩ, từ đó họ cho rằng “thấp” hơn họ, theo cái bản-năng tự-nhiên của con người, mà Nietzsche gọi là “volonté de puissance” (ý-chí quyền-lực). Thường người ta chỉ dễ chia xẻ với nhau hơn, khi người ta “đồng điệu”
- nói theo kiểu Chu-Mạnh-Trinh, đồng-điệu trong cách chịu đựng
đời sống cũng như trong cái nhìn chung-cục về cuộc đời…Trong
phone người bạn bày tỏ về những hoàn-cảnh phũ-phàng trong
gia-đình ở bên kia, và những hệ-luận ở đây, cộng với những
cọ-xát chung quanh làm cho anh ta “buông thả”, một thái-độ của kẻ muốn xô trôi cuộc-sống. Như vậy là anh bạn đã có vẻ muốn quên đi một câu viết ngày xưa trong thư cho hắn: “Nếu vì một lý-do nào đó anh bỏ cuộc nửa chừng, thì tôi sẽ tiếp nối, lý-do chọn anh, xin miễn trả lời…” Thực-sự, hắn biết bạn mình viết câu đó với tâm-trạng của một kẻ nhiệt-tình, dù lúc đó hắn chẳng bao giờ có ý-định “bỏ cuộc” chơi, và bạn cũng chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện “buông thả”. Nhưng quả thực, sau gần một năm, hắn không dính-líu gì đến chữ-nghĩa, thấy đầu óc thảnh-thơi, nhưng bù vào đó hắn lại mang thêm một thứ mặc-cảm đối với những người “đồng điệu”, ít ra là trong hoàn-cảnh của những người mất nước lưu-vong thầm-lặng lương-thiện, thế nên hắn luôn mang tâm-trạng của một người có “Nhị-trùng bản-ngã”(dédoublement du moi) - mà với bản-ngã nào, hắn cũng có vẻ thua, bởi vì giữa mình và kẻ khác, đối với những “kẻ có lòng”
thì nó không còn khoảng cách nữa, kẻ khác là mình, và mình
là kẻ khác, cho nên không thể phụ lòng nhau. Sự bỗng dưng thiếu
vắng nhau, đôi khi trở thành những hụt-hẫng khó chịu trong
những thói quen có lựa chọn…
Người bạn này sau đó, hắn khám phá ra là một tay ghiền cờ bạc nặng - một loại người có thể làm mọi thứ để có tiền mà tiếp tục đam mê, nhất là nói dối - mà người đời vẫn thường minh chứng qua thành ngữ rất tệ là “cờ gian bạc lận” sau khi anh ta đã gạt hắn bằng tin: “Tao đã bị accident xe rất nặng và đang nằm nhà thương , mày gửi tao mượn 500$ ngay!”... thế là hắn làm liền để giúp bạn mình dù hắn cũng xác-xơ có dư-giả gì đâu, nhưng sau đó thì hắn nhận được tin nhắn tiếp “Tao chưa nhận được tiền mày, gửi lại gấp đi” thì hắn biết việc gì đã xảy ra khi hắn đến post, xin check lại chữ ký của người nhận tiền bên kia, thì hắn thấy đúng phóc, nghĩa là người bạn kia đã lường gạt lòng tử-tế của hắn, nên hắn đã từ-từ lui ra hầu bôi đi những tình cảm sai chỗ....
Trời vẫn tiếp-tục đổ những cơn mưa kéo dài từ đêm hôm. Ly
cà-phê chỉ còn những cặn mịn-màng, nổ̉i lên giữa lòng chén sứ
trắng. Trong quán thấy người đã bắt đầu thưa. Hắn không muốn trở về nhà, vẫn muốn ngồi đây suốt đêm, bởi hắn sợ hãi 4 bức tường câm nín của căn flat nhỏ bé, sao nó giống những bức tường nhà tù mà hắn từng đối diện suốt 6 năm quá vậy ?. Đã 5 năm rồi, ngẫm-nghĩ lại những ràng-buộc đã trôi qua, từ những ngày đầu giữa mùa mưa năm 82 ở đồi
Endeavour những gió là gió, từ vùng bể South Coogee thổi lên,
lùa qua những mái ngói rít lên từng hồi. Lạnh cóng người, mà hắn không
biết sử-dụng cái túi đệm, cứ nằm đè lên trên, làm cho cô bồi
phòng người Indo khó chịu cằn-nhằn, phải mất công chỉ vẻ
lôi-thôi. Đó là những bài học đầu tiên về văn-hóa Úc của một
người đến từ vùng nhiệt-đới. Sau những bữa cơm nhà bàn với quả cam nho nhỏ dùng để tráng miệng hắn không ăn vì không thích loại quả này, nhưng trên đường về phòng trọ hắn thường ghé qua nhà Lục-giác đặt trái cam ấy trên bàn người Thông-dịch viên, dù có cô ở đó hay không, người con gái xinh-xắn ấy tên Nhã gốc
Tàu nhưng lại từng học Triết Tây với nhà Thơ Nguyên Sa ở Saigon trước
75 . Cô có dáng đi nhún-nhẩy chân chim. trông rất vui mắt, nhưng
cũng có đôi lúc trong những cơn mưa chiều tầm-tã, hắn ôm cặp đi học trễ bên khu Văn hóa Di-dân, đang lom-khom núp mưa theo mái hiên khu nhà Lục-giác - nơi cô làm việc mỗi ngày, thì bất ngờ hắn chợt thấy cô, hai tay đang ôm vòng trước ngực mình, vẻ trầm-tư, đứng nơi của sổ nhìn mưa với đôi mắt rưng-rưng…chắc là đang nhớ nhà,nhưng khi nhận ra hắn thấp-thoáng dưới hiên thì cô hỏi “Anh đi đâu mà mưa ướt hết vậy ?”. Vì đã trễ, nên hắn vội bước đi vừa trả lời “Đi học Văn hóa Úc!” . Nàng nói với theo giọng vui-vẻ như muốn chọc hắn chơi: “Học cô gì xinh-xinh đó phải không anh?” . Hắn chỉ kịp nói “Ừa” ngắn-ngủi, thì nàng lại tiếp theo trong nụ cười lớn:“Cho em thăm cô ấy nha!” thì cũng là lúc hắn chạy nhanh để bước vào lớp học! Cả lớp đã đầy, học viên toàn là người Tỵ-nạn mới đến từ các Đảo, nhao-nhao vỗ tay, vì lâu nay họ vẫn cứ “cáp đôi” hắn với cô giào này, chỉ vì hắn là người duy nhất trong lớp học được cô ưa gọi là “Ông Giáo-sư”thay vì “Các anh chị” như những học viên khác – mà chắc là cô biết được từ cái lý-lịch cô giáo nắm vững trong tay, còn vì sao chỉ mình hắn được gọi như vậy thì hắn không biết .Cô giáo có thói quen mỗi khi vào lớp, dù có hắn hay không có hắn (vì hắn ưa “cúp cua” đi chơi) thì cô luôn-luôn hỏi đám học-viên câu này:“Ông Giáo-sư đâu rồi?” nếu có hắn trong lớp, thì hắn chỉ hô lớn “Có mặt!” trong tiếng cười rộ của mọi người rất vui-vẻ . Hôm đó cô đang dạy về cách điền “form” Ngân-hàng để “rút” hay “bỏ” tiền vào Bank, nên phát ra cho mỗi học-viên một tờ “form” in sẵn của Ngân-hàng Westpac để làm mẫu. Lúc nào hắn cũng ngồi dưới cùng lớp như thói quen của thời trung học, nên hắn được phát tờ form sau nhất với câu hỏi của cô thực nhỏ chắc sợ cả lớp nghe: “Sao bữa nay đi học trễ quá vậy ?” hắn mỉm cười nói như phân bua: “Tại mưa, nên đứng núp ở hiên nhà Lục-giác hơi lâu!”Cô giáo hỏi dồn, giọng nửa thực nửa đùa:“Bộ tán cô Nhã hả ?” Hắn cũng không vừa, xắn tới luôn: “Ừa! She gửi lời thăm chị và khen chị đẹp!”. Cô giáo bật cười lớn lên làm đám học-viên nhìn lại nghi-ngờ.... rồi cô giáo bẽn-lẽn hạ thấp giọng, lấy tay che về hướng học-viên và nói thì-thầ m“Nhưng điều quan-trọng là anh có khen tôi đẹp không chứ!”Hắn nói nhanh: “Còn gì nữa chứ, nhưng tôi chỉ chuyển lời người ta nói thôi mà !Cám ơn she đi nha!“ …
Được biết cô giáo hắn đang học vốn
là con gái của ông Trưởng ty Y-tế Trà-Vinh trước 75, cô làm ngành
xã-hội ở VN và tu-nghiêp ở Nhật, qua Úc được làm việc ở sở Di-trú
chuyên dạy về “Văn hóa Úc” cho người mới đến. Cô có dáng thanh-cảnh, ăn mặc đẹp, da trắng, và ăn nói rất vui, pha một chút lãng-mạn vì cô rất thích Thơ văn VN… Hồi này báo Việt ngữ ở Úc cũng được vài tờ, họ hay ôm báo bán còn dư vào Hostel để tặng người VN mới đến chả phải tử tế gì, mà với dụng ý đồng hương mới đến sẽ là những độc-giả của báo họ sau này… trong đó thường có những bài hắn viết trên đất mới rồi gửi ra ngoài đăng, hầu kiếm tiền tiêu vặt… nên có lần hắn rất ngạc nhiên khi nghe cô giáo đọc lại thuộc lòng những lời văn cô thích của hắn trong đó mà cô tâm-đắc dù những câu có vẻ “unfair” như: “Người đàn bà, tóc họ dài nhưng nỗi lòng họ ngắn” và trong những trường hợp như vậy cô ưa thòng câu biện-minh cho chính mình, bằng Anh-ngữ pha VN với nụ cười rạng-rỡ: “Not me nha!” nhất là biết hắn từng dạy Văn và Triết học ở VN truóc 75, những môn cô rất thích... như lý-lịch đã ghi mà cô nắm giữ trong hồ-sơ của các học-viên …
Với Nhã - hắn chỉ có chừng đó thân quen chừng mực như những quả cam bất ngờ trên bàn làm việc của nàng kể cả khi nàng vắng mặt và thì thoảng hai đứa cũng có đi chơi đồi xung quanh Trung tâm tiếp cư Endeavour trong giờ nghỉ,
để rồi sau đó 4 năm, tình-cờ gặp lại nhau, ở một con phố
nhỏ, nhìn mặt không ra, với những ngỡ-ngàng ở ngoài
tưởng-tượng. Những bước chân sáo hồn-nhiên và đôi mắt long-lanh
ngày xưa, bây giờ chỉ còn là những tàn-tạ không ngờ. Hắn đường-đột trong nỗi ngạc-nhiên sâu,và hỏi:
-Trời ơi! Nhã ngày xưa, đó sao?
-Dạ, xấu lắm phải không anh? Ai gặp em cũng “quở”(tiếng của nàng dùng lúc đó) thế! Có lần lái xe thấy anh lang-thang dưới City, em định dừng lại hỏi thăm, nhưng dáng anh mất tiêu... anh vẫn như “cá nước chim trời!”... Những
quả cam trên bàn em thường lệ, cũng mất theo những thấp-thoáng
anh vào những buổi trưa từ nhà ăn đi qua khu nhà Lục-giác... rồi bỗng dưng anh mất hút luôn không một lời từ biệt, mà em biết chắc anh đã âm thầm rời khỏi Trung tâm, sao lại lặng lẽ vậy hả ? Anh
tạo cho em những thói quen, rồi cũng chính anh gây ra những
mất-mát khó chịu mà êm-ái trong lòng.. Cách đây không lâu, có
người mang cho em cuốn “D.X” của anh, chỉ cho em một bài thơ trong đó, có liên-quan tới em, nhưng em chỉ đọc nó một lần, rồi thôi…
-Sao vậy? Dở quá phải không?
-Không phải!Em sợ buồn!...
Hắn có thói quen, khi làm Thơ có liên-hệ tới ai - khác với người ta, là hắn lại không muốn cho người đó đọc, bởi vì hắn làm Thơ cho hắn, chứ không phải cho người đó, mà họ chỉ là cái “prétexte” để hắn nói lên tâm-cảm của chính mình thôi. Đó là lý-do tại sao người ta ít thấy hắn đề tặng trên bất cứ tác-phẩm nào của mình cho ai cả, mà thường chỉ ghi “Tặng tôi” là nhiều, nên người liên-hệ chỉ có thể được đọc trong trường-hợp rất bất-ngờ họ tình cờ khám phá ra như vậy, vì hắn biết đó chẳng phải là niềm vui gì, khi mọi sự-kiện đã xa, đã cũ, đã lâu, có khi vài thập-niên …và người liên-hệ - đôi khi đã trở thành một người khác, như Nhã chả hạn ..nếu không có ông bạn tinh ý biết được bài thơ, mang đến cho nàng… Từ đó, nó là nỗi buồn tình-cờ, làm sao Nhã có
thể đẩy lùi được thời-gian để sống lại với những kỷ-niệm đó được, nên
nàng không thể dửng-dưng, dù nó có là niềm vui xưa đi nũa… Cuộc đời, tự
nó bao giờ cũng chỉ là những cách ngăn mà người ta rất dễ ngộ-nhận: họ
đến với nhau chỉ vì họ “tưởng” rằng họ đã phải lòng nhau, và họ xa nhau cũng chỉ vì họ “tưởng” rằng một trong 2 người đã phụ bạc hay không yêu nhau!?
Trời vẫn tiếp-tục những cơn mưa ngày càng nặng hạt. Hắn cầm
cái thìa không, gõ nhẹ lên cái tách sứ trắng ngà, chỉ còn
trơ những dòng cà-phê đen quánh, khô lại những hương-vị đắng.
Điệu nhạc êm dịu từ một bài hát tình-cảm tha-thiết của
khoảng 20 năm trước đây, có vẻ lạc điệu giữa một thời buổi
thịnh-hành nhạc Disco ồn-ào, ở quán kem bên cạnh. Thì ra,
tình-yêu ở đâu cũng thế, và thời nào vẫn vậy!
“I love you more than I can say!
I misse you every single day…
Why must my life be filled with sorrow?”
Bài hát này có cái tên dài ngoằn và rất thiết tha của một người yêu một người khác vôbờ-bến nhưng dở-dang với đầy oán trách: “I love you more than I can say”nhưng lại: “Sao đời tôi chứa đầy buồn tủi” ... mà hắn từng được nghe qua phone trong giữa đêm khuya, khi hắn đã rời Hostel ra ngoài ở, sau đó …..
Sự bất-lực của ngôn-ngữ vẫn là khởi đầu của những cách xa,
nhưng cũng là những vỗ-về thầm-lặng, khi người ta đã chọn sự
nín thinh làm cái “tháp ngà” nuôi-dưỡng tình-cảm mình, mà không cần phải được đón nhận trở lại, từ một nơi trước đó nó đã đi ra… y như những dòng thơ của một người tình lận-đận được giấu sâu dưới cái tên của nhân vật “G. Băng” lạnh như sương khuya phảng-phất trong một chuyện ngắn… của hắn vào những ngày cuối cùng,hắn có ý-định rời bỏ Sydney để đi xa:
“ Nắng hồng xưa đã tắt,
Người xưa ơi, có hay?”..(Ng.H).
Và, cũng chính những dòng thơ này, đã neo chân hắn ở lại đây cho đến bây giờ mà không quên được những ray-rứt đêm hôm….
Tiếng nhạc vẫn réo gọi buồn phiền với những lời lẽ của
những kẻ yêu nhau, để rồi gởi lại nhau những mũi dao nhọn trong
đáy của những trái tim, trước đây đầy những nồng-nàn, tưởng
chừng là của nhau đời-đời trong Thiên đàng mật ngọt. Bản nhạc
tình-cờ làm nhớ lại những ngày ở căn gác phố Erskineville
tăm-tối, có khung của sổ nhìn ra ngôi giáo đường cổ-kính, được
chăm sóc bởi một vị Linh-mục già người Ý, lúc nào cũng chào hắn với những câu hỏi thân-tình, khi ông biết hắn là người Tỵ-nạn cô-quạnh., biết nói tiêng Pháp mà xứ Ý của ông cũng rất sành , khi hắn hay bưng rổ áo quần mới giặt xong ra phơi ở sân sau căn gác.Chính nơi căn gác này, hắn đã nhận được một cuốn băng nhạc của một người gởi cho, với lá thư ngắn để nơi cửa lúc hắn vắng nhà. Trong thư chỉ có viết vỏn-vẹn vài câu ngắn ngủi, mà hắn vẫn nhớ mãi đến bây giờ: “Anh hãy chờ đến số 160 trên counter, một bản nhạc tôi đã nghe suốt buổi chiều hôm qua và đã từng hát cho anh nghe qua phone nhiều lần . Mến.”...
Bản nhạc đó, chiều nay lại trở về trong những cơn mưa đìu-hiu
ở nơi phố nhỏ xa lạ này. Và cũng chính người bạn này, có
lần gặp nhau trong một bữa ăn hẹn trước, để chỉ làm thinh
nhiều hơn, ngoài những câu nói có vẻ trách-móc xa-xăm. Hắn thoáng nhìn thấy trong đôi mắt của người bạn có một điều gì đó u-uẩn và hắn chợt hỏi:
-Dường như lúc này em sống một mình phải không?
Người đàn bà cúi xuống một chút và không muốn trả lời , nên hắn tiếp:
-Đáng lẽ tôi không nên hỏi một người phụ-nữ câu này, nhưng tôi muốn chia xẻ với em những buồn tủi trong đời sống không bình yên ...
Người ấy ngước lên chậm-rãi nói buồn-bã:
-Điều đó có thể đúng, mà cũng có thể sai. Có lẽ kỳ holiday này, em sẽ đi Tasmania một mình…
Hắn chồm tay lấy miếng tissue lau cái muỗng cho người bạn, một công việc mà đã lâu lắm hắn không làm, và nói:
-Tôi hiểu được câu nói đó của một người đàn bà trước đây từng có chồng. Tôi vẫn nhớ chiếc robe màu xanh da trời của em ngày xưa…ở Endeavour...
Người đàn bà mỉm cười, giọng thấp xuống:
-“Ngày xưa” thường là ngôn-ngữ đẹp của những kỷ-niệm, em chỉ có với anh ở những ngày đầu, khi anh mới đến Úc…bây giờ thì…
-Dường như tôi đã không gặp em có hơn nhiều năm
nay rồi…Mọi tội-lỗi thường dành cho những kẻ biệt-tăm…Tôi
nghĩ, tình-cảm nào rồi cũng dắt-dẫn đến những chênh-vênh của
lòng hối-tiếc, có pha lẫn nỗi ngậm-ngùi, nếu khá lắm có thêm
chút thứ-tha trong ít nhiều phiền-trách. Đôi khi là những hờn
dỗi có cớ kéo dài trên những cường-độ cao để trở thành
thù-hận, đến ngoảnh mặt làm ngơ, như thể̉ chưa biết nhau tự bao
giờ. Đó cũng là một cách tự “bôi-bác” tình-cảm của chính lòng mình, khi tự nó đã là một thứ “của riêng” hiếm-hoi trong cái kho-tàng tình yêu…phải không, lúc tôi đang trọ ở cái gác nhỏ đìu-hiu phía sau nhà Thờ mà em đã chịu khó bước tới để nhét một tape nhạc tặng tôi khi tôi vắng nhà ....?
Và, cũng chính nơi cầu thang của căn gác này, hắn đã tiếp một người bạn Văn nghệmới, từ Canberra xuống, khi người ấy nói rằng, người ấy chia xẻ được nỗi buồn-tủi của hắn qua bài thơ “Trưa nằm ở ga Marrickville” đăng trên Quê Mẹ thời đó vì bữa đó hắn đi khám bịnh nhưng hết gìờ làm việc phải đợi đến 2 giờ chiều Bác-sĩ mới làm việc lại, hắn đành ra Ga nằm nghỉ chứ sao? Hắn đón nhận tình-cảm bạn mới đó một cách bình thường và chừng-mực của một người làm văn-nghệ rong chơi. Rồi sau đó trong những đêm bù-khú với nhau không lấy gì làm thích-thú lắm bởi hắn tự cảm thấy như mình lạc-điệu giữa những tình-cảm, mà nơi đó hắn nhìn thấy được những điều ở ngoài hắn rất nhiều. Tuy vậy, cũng có lần, vào một khuya rong chơi ở phố Redfern, qua một công-viên đầy những cây xanh, người bạn đó nói trong vẻ chân-thành:
-Mày là một người bạn tốt!
-Vì sao vậy?
-Vì ít ra, mày đã viết lời tựa cho cuốn sách đầu tay của tao nơi đây, mà tao biết mày chưa hề chịu viêt cho ai !
Hắn chỉ phản-ứng lại bằng một nụ cười mỉm, nói:
-Việc nhỏ! Chỉ
mong mày coi tao như một người bạn bình-thường, bởi vì mọi sự
ca-ngợi, dù với bất-cứ mục-đích gì, sau này nó dễ
trở-thành nghịch-lý kỳ-quặc, và buồn cười đến thảm-thương khi
lòng ích-kỷ nhỏ-nhoi của con người bỗng dưng trổi dậy, thành
một yếu-tố “dominant” .Nói theo kiểu sinh-vật học, trong những trái tim bé nhỏ, như “trái tim của những con sâu”, thì buồn lắm! Những ý nghĩ “tốt” đó, được người bạn lặp lại nhiều lần, nhất là trong một bài thơ mà người bạn đó làm, dường như có tên “Cú đấm tháng Bảy”(?) trong đó, tên hắn được ông bạn nhắc lại nhiều lần như sự biết ơn, sau một “tai nạn tình-cảm” bất ngờ, do một người đàn ông khác tấn công dữ-dội trong một quán ăn có phụ diễn Văn nghê ở Melbourne, nhưng chính hắn là người đứng ra can ngăn và bảo vệ ông bạn tới cùng... nhờ vậy ông ấy bình an,ngoài mấy bợp tai nẩy lửa của người bạo hành... thế mà bây giờ, sự “tốt” đó, đã trở thành huyền-thoại Hải trong tâm-khảm của ông bạn rồi, bằng cách viết báo vu hắn là nằm“VC nằm vùng Hải-ngoại” và giễu hắn chỉ là “Tên du thủ chuyên ngủ ga xe lửa”- từ bài Thơ mà ông bạn đã khen trước đây để tìm gặp làm quen - chỉ vì những ganh tỵ nhỏ-nhen về danh tiếng Văn nghệ, vốn rất đỗi phù-vân mà người cầm bút không nên có! Điều đó không làm hắn ngạc-nhiên, bởi vì hắn đã tiên-liệu như thế trong buổi ban đầu gặp nhau ...đã không tin tưởng về tư cách, lẫn lối ứng xử hằng ngày.... “Bọt” và “bèo”, tự nó đã là những ý-niệm vô-thường trong đời sống đổi thay. Sự
phản-trắc là một điều xấu trong Đạo-đức học, nhưng nó lại
là điều bình thường trong cõi nhân-sinh, mà nơi đó người ta có
đủ niềm ngụy-tín để úp mặt vào lòng bàn tay mình, vốn đã
có nhiều kẽ hở, và qua đó, người khác có thể nhìn thấy rõ-ràng mình là ai? Hắn hơi buồn, mà không hề thù-hận…
Mưa vẫn tiếp-tục rơi bên ngoài, hắn vẫn tiếp-tục ngồi với chiếc tách rỗng
không, lòng cũng trống theo những tình-cảm mất-mát! Đĩa nhạc
vẫn cứ tiếp-tục quay tròn như một cái vòng vây quanh đời
sống.Tại sao lại làm phiền lòng nhau nhiều đến thế? Không có
gì êm-đềm để gởi lại cho nhau, hay sao? Bỗng hắn chợt nhớ đến một câu trong một đoản-văn tên “Hobart sương mù” cách đó không lâu, của một Ca-sĩ ở xa,diễn-tả lại những cơn buồn bất chợt đến với nàng, có liên quan đến một người mà ai đọc cũng ngờ là hắn - nên thật lòng con người không thể nào chạy trốn nổi khỏi chính mình: “Tôi muốn khóc quá đỗi, khi một tình cờ đang về rất khẽ và êm…” dù những tình-cảm đó, bây giờ nó đã trở thành những quay lưng cúi mặt, nhưng quả tình, lúc này, dường như đã ̉khơi dậ̣y trong hắn một nỗi yên-tâm, khi hắn biết được rằng, cũng đã có người đi hết được phân nửa ước mơ, mà hắn muốn gởi lại trong những ngày cuối cùng không lấy gì làm êm-ả lắm: “Chỉ mong cho em lấy chồng, và đoàn-tụ được với bố mẹ em thôi…”…
Hắn cũng
tự cảm thấy một điều gần như Chân-lý đâu đây: Đôi khi những
lời ru nhỏ, nó lại là những an-ủi lớn trong những tháng ngày
trôi xuôi, vì nó được đi qua bằng ngả của lòng thành - thật như bọt-bèo
tình-cảm, lênh-đênh hiện về trong một ngày mưa dai-dẳng, trên
con phố nhỏ đìu-hiu, có một người di-tản buồn, ngồi một mình,
bên những đổ vỡ xa-xăm…mà tuyệt-vọng, đến không hề mơ một cơ
may nào hàn gắn lại…
Lúc đó cái đĩa nhạc đã quay đến những tua cuối cùng của
bài hát.Giọng của người nữ ca-sĩ Tây kéo dài ra với những
lời bi-thảm tắt nghẹn như muốn khóc. Hắn đứng dậy ra về, cúi đầu co-ro dưới một mái hiên, mà vẫn nghe loáng-thoáng giọng ca đục khàn, loãng ra dưới những cơn mưa:
“…Don’t you know I need you so?
…do you mean to make me cry…..?
…………………………………….
I love you more than I can say!....”
Hắn đứng trên lề đường để chờ băng qua một “Crossing”, những âm-hưởng tha-thiết đầy than-vãn của bản nhạc tình khổ đau, vẫn còn vang-vọng mãi bên tai hắn - một người Di-tản buồn , cô quạnh, và hắn tự hỏi: Không biết mình đang nghe bản nhạc đó, hay chính mình đang hát nó? Nhưng với câu trả lời nào, thì hắn vẫn thấy hắn không vui, lòng cũng dài ra những câu hỏi buồn tênh trong bài hát :
“Why must my life be filled with sorrows?”
Chữ “Don’t walk” trên “traffic lights” ở bên kia đường nhấp-nháy hối-hả, hắn chạy băng qua, rồi bước lên một chiếc thang lăn để đi xuống một đường hầm xe lửa....
Tiếng chạy lù-rù của chiếc thang lăn và gió dưới hầm tàu thổi ngược lên, làm cho hắn có
cảm-giác như mình đang trôi trong cuộc đời, phía trước mặt là
những cơn bão-bùng, như những cơn cuồng-nộ tình-cảm xung-quanh,
mà mình đã bước qua… Một cảm-giác lạnh người, pha lẫn sự buồn
phiền đến bởi những mất-mát, nhưng thực lòng, hắn không hề thấy bóng dáng của sự thù-hận, thứ chỉ có cơ kéo tâm-hồn mình đi xuống mà thôi, và hắn chợt nhớ đâu đó trong nhật-ký của Frank - một cô bé Do-Thái 13 tuổi đã ghi những dòng trong cuối đời: “Dù mọi việc đã xảy ra như thế nào, cũng nên tin rằng, thực chất con người vẫn tốt!...!” mà thấy lòng mình nhẹ hơn lên… cùng lúc đâu đó hiện lên nụ cười hiền lành và đầy tha-thứ của tên hát dạo bụi đời khi chiều, lúc hắn ta hát xong mà trong cái mũ không hề có xu teng nào để trả công hắn từ nhiều người đứng xung quanh xem hắn diễn cả... nụ cười đẹp vô cùng , rất hồn nhiên và hiếm thấy trên cõi đời đầy những bọt bèo này ...
Nguyễn-Tư