NỖI NHỚ SƯƠNG MÙ...
*Tùy bút Nguyễn-Tư
Dã-Quì à, sao em lại gửi cho anh một chiếc thư như vậy - chiếc thư chỉ có cái phong bì trống trơn! Anh có làm gì cho em buồn lòng không? Em có biết rằng, sau khi nhận được cái thư "kỳ cục" đó, lòng anh chùng xuống thấp như sợi dây thép giăng ngang
giữa mùa nắng Hạ, bập bùng những âm thanh khô của một ngày hè đỏ
lửa... Anh đã âm thầm đến cái góc tối của một quán cà-phê Tây, đặt cái
thư mỏng như chưa được mỏng bao giờ lên bàn vì nó rỗng ruột bên trong, thấy chỉ ghi có cái tên người nhận và địa chỉ phía trước, và phía sau có ghi cái tên cùng địa chỉ của em rõ ràng... để anh kiểm nghiệm lại những gì đã xảy ra, mà đôi khi trí nhớ của anh ngày một cùn mằn bởi bụi thời gian không còn kiểm soát nổi nữa!
Và, anh đã không thấy điều gì! Tuyệt nhiên không, vẫn như cốc nước đầy, dù vẫn thiếu một chút mặt trời hồng trong đó, nhưng nhất định là chưa bao giờ hư hao giọt
nào hết! Thế thì sao đây? Những chiếc thư bất ngờ như vậy trong
đời,thường được người nhận diễn dịch bằng nhiều cách: một là người gửi
thư đã đãng trí, quên bỏ cái thư vào phong bì sau khi viết xong, trước khi dán nó lại. Hai là người viết thư muốn bày tỏ rằng lòng mình không có ngôn ngữ nào để diễn tả nổi những suy nghĩ của chính mình lên thư, ngoài những dòng chữ màu trắng vô hình trên trang giấy nữa, mà người nhận thư có bổn phận phải tự tìm cho ra nội dung - một thứ "vô ngôn" trong quan điểm của Phật giáo Mật tông ấy mà, giống như ngày xưa trên báo miền Nam bị kiểm duyệt vì đụng chạm tới chính trị nên nhà cầm quyền phải bôi trắng những câu bất lợi cho họ, khiến Chủ báo phải ghi một câu rất đắng cay :“Xin quý Độc giả hãy đọc chúng tôi trên những dòng bôi trắng này . Cám ơn!”. Nói tóm: có một thứ “ngôn-ngữ- không-ngôn-ngữ” mà người ta có thể đọc được như bài Thơ anh làm trong một dịp Xuân:
MÙA XUÂN VÔ-NGÔN
“Một đời không biết mùa Xuân,
Thì trăm hoa nở cũng chừng ấy thôi!
Nỗi đau không nói thành lời,
Thì trăm ngôn-ngữ cũng rơi cõi ngoài...”(NT)
Không ai mừng Xuân kiểu này cả, vậy mà có một lần trong một bữa tiệc Tất niên của nhóm thân hữu Văn nghệ đã có một cô bé ngồi cạnh anh hỏi “Có phải NT làm bài Thơ Mùa Xuân vô-ngôn không vậy?” sau khi nghe MC giới thiệu anh với khách tham dự... Anh chỉ mỉm cười nói nhỏ chắc trùng tên ..... Cô ấy đáp; “Em thuộc bài này, vì nó giống em...” anh nói: vậy à, thanks!...
Cuối cùng là người viết thư muốn nhắn-nhẹ rằng :“Tôi không có thì giờ viết thư, thôi đừng liên lạc với tôi nữa..”.Chừng đó những lý do cho một chiếc thư "không", em rơi vào trường hợp nào? Trường hợp thứ nhất, em hãy còn trẻ lắm chưa đến nỗi đãng trí như vậy đâu, và nếu như em quên bỏ thư vào phong bì thực, thì cái thư sẽ còn nằm nguyên trên bàn viết của em, và bắt buộc em phải gửi nó đi thôi bằng mọi cách bởi vì không ai chịu khó viết cái thư rồi lại không chịu bỏ vào phong bì..... nhất là em mới chỉ 30 ngoài, biết làm Thơ ở cái xứ chữ nghĩa nước mình mỗi ngày mỗi tàn và có cơ biến mất khi thế hệ anh nằm xuống. Hơn nữa, em mới vừa ra mắt một tập Thơ đầu tay, mà
chính anh vẽ bìa cho em kèm vài phụ bản chỉ vì một cái thư lạ trong hộp thư của anh từ xa ghi rằng “Thưa anh, dù chưa biết anh bao giờ ngoài đời, nhưng lại rất rõ anh trong Văn chương, kể cả Mẹ em ...rất thích đọc anh như em, nhất là cuốn NGƯỜI TÙ Ở LẠI mới đây...Và, từ đó em bạo gan muốn nhờ anh vẽ cho em một cái bìa cho tập Thơ đầu lòng của em, cũng rất tham lam muốn xin anh vài phụ bản cho tập Thơ nhỏ bé như em nè, điều kỳ lạ dù chưa quen nhau bao giờ nhưng em vẫn nghĩ anh sẽ nhận lời... chỉ vì em biết anh là người có trái tim lớn hơn cái đầu để tính toán nên ưa giúp những ai cần tới anh, nhất là trong Văn nghệ, nếu anh có thể.....” Em gái Bắc viết thế, bố anh cũng không thoát được, nhưng nói thực anh muốn làm cho em chỉ vì 2 điều : Em người Đà Lạt là nơi anh lỡ nợ-nần khi anh mới ngoai 20 tuổi, và em đang làm tập Thơ đầu tay, mọi thứ rất bỡ ngỡnếu không muốn nói là khó khăn ...That’s it!.... Anh nhớ có hứa làm cái bìa cùng phụ bản cho em nhưng chần chừ mãi gần đến ngày em sắp in tập Thơ thì anh phát bịnh nặng phải nhập Bịnh viện, nhưng trước khi nhập viện đêm đó anh cặm cụi ngồi vẽ cái bìa cho em, bỏ vào phong bì lớn cùng vài phụ bản có sẵn và sáng hôm sau ra Post gửi bảo đảm cho em, chỉ vì anh sợ “bội ước” , một thứ tội lỗi thường tình trên cõi đời này nhưng anh lại không được phép tự tha thứ cho mình.
Trường hợp thứ hai: một cách chủ quan – dĩ nhiên, anh nghĩ tình anh em mình chưa đủ "nồng" để em làm như vậy với một người cù-bơ-cù-bất như anh, dù trong thực tế anh luôn tự nhủ mình: “Mọi việc đều có thể xảy ra dưới bầu trời này được, những thứ mình nghĩ sẽ chả bao giờ xảy ra nó lại hay xảy ra giống như tai nạn xe ưa xảy ra không phải nơi khúc quanh mà là trên đướng thẳng ...” .
Như thế thì chỉ còn trường hợp sau cùng - trường hợp đau thương nhất trong cách xử sự tình cảm giữa những con người và con người là “chia tay”, em biết không?
Cũng như em, mọi người ở đây nhìn anh dưới những nhãn quan khác, đều sai lầm, bởi
vì - thực ra - anh không phải như vậy đâu, dù họ có gán ghép, khen
tặng, chê bai anh cách gì đi nữa. Dẫu cho anh có viết ngàn bài Thơ, in
hàng chục cuốn sách hay vẽ hàng trăm tấm tranh... vẫn không phải là điều anh nhằm tới như một con đường để tô điểm cho cái mà người ta thường gọi là "Công Danh" của chính mình, vì anh là kẻ đã từng có Công Danh bên nhà - nếu xét theo một nghĩa nào đó! Nhưng anh chỉ muốn người ta nhìn anh như một người thất vọng trong đời thường, tệ hơn: một lính đau thương, một người ngã ngựa - nạn nhân của một trò chơi Lịch sử thê thảm mà thế giới gian trá tột cùng, để bất cứ một người Việt nam nào cũng không có quyền tham dự trong việc quyết định tối hậu, kể cả ở hai miền Bắc Nam, em hiểu chưa!?
Đó là lý do tại sao, người ta thường nhìn thấy anh đội cái nón rừng - lọai nón vải rộng vành (cũng gọi là nón “bord”) mà ngày xưa anh ưa đội chỉ vì nó nhẹ nhàng và rất mềm nên rất dễ đút túi, đôi khi làm cái khăn mù-soa lau mồ hôi nhễ-nhại trong những khi hành quân dài ngày nắng cháy da người ở vùng hỏa tuyến Trung kỳ. Phía trước nón có kết cái tang màu đen của mẹ anh đã quá 3 năm mà anh không chịu mãn như thong lệ, khi bà mất ở quê nhà mà không hề biết anh nơi đâu vì anh không được liên lạc với gia đình khá lâu cũng chỉ vì Lịch sử! Một bên mũ có gắn huy hiệu lá cờ vàng nhỏ xíu do anh em trong hội Cựu Chiến-binh VN ở đây tặng , chỉ vì anh cảm được lời nhạc của một bạn trẻ lưu vong đã viết:"Tổ quốc thân yêu, trên đầu tôi đội..."này, mà đôi khi được người ta hiểu anh như một người "lập dị", bởi vì họ không nhìn thấy anh, ngày mới vừa bước chân lên đảo Galang, đang đi trên con đường chính dẫn xuống chợ Sinh họat với bộ đồ "civil" rách rưới, anh đã đứng nghiêm chào tay với những giọt nước mắt rưng-rưng vì quá xúc động, khi sau gần mười năm anh như trong cơn ác mộng với tư cách một người lính bại trận trong tức tưởi đã bị hành hạ và làm nhục qua tất cả nhửng trại tù của VC chỉ vì anh đã phục vụ tận tình dưới ngọn cờ thiêng liêng này với 3 lần lính kể cả cấp bậc Binh nhì khi anh mới vừa khôn lớn... .anh đã bất ngờ nhìn thấy lácờ này lần đầu tiên được kéo lên trên ngọn đồi cao với bài Quốc ca hùng tráng trong một buổi sáng thứ Hai theo thông lệ chỉ được chào một lần trong 1 tuần theo lịnh của Đại tá Trưởng đồn Police Indo trên Đảo của họ, mà sau này hỏi ra mới biết.Và, điều đau đớn hơn, trong lúc anh đang đứng nghiêm vừa chào tay vừa hướng mặt về phía ngọn đồi có lá cờ vàng từ từ kéo lên thì hầu hết mọi người tỵ nạn VN khác họ vẫn đi từng nhóm tỉnh queo vừa chuyện trò rôm-rả, như thể họ chẳng dính líu gì đến lá cờ ba sọc đó này, khiến cho một số người ngoại quốc của Cao Ủy, những người đang cứu xét hồ sơ của những tốp người này dựa trên “lý do Tỵ nạn CS” duy nhất, chứ không phải lý do Kinh tế... Cho nên họ rất đỗi..... ngạc nhiên, khi họ xuống xe và đứng nghiêm, mắt hướng về lá cờ xa lạ ấy theo phép lịch sự thông thường của xứ văn minh lúc nghe Quốc ca của một dân tộc khác, để đến nỗi anh phải nói trớ với họ cho đỡ ngượng rằng: "Đó là những người Lào và Campuchia, không cần chào lá cờ này", dù như vậy cũng đã là bất lịch sự lắm rồi! Như thế, mới thấy rằng những người lính trước đây họ chiến đấu rất cô đơn, và anh tự hỏi không hiểu những người này khai trước bàn phỏng vấn Cao ủy họ đi "tỵ nạn" với danh nghĩa gì, mà không biết trọng lá cờ của đất nước mình hay họ đi từ miền Bắc chăng mà phần lớn chỉ đi theo ngả Hồng Kông, khi anh vẫn nghe họ nói giọng Nam rất lớn? Thảo nào người ta đã bảo họ đi tỵ nạn "kinh tế", hay nói rõ hơn là đi kiếm "miếng ăn" và đã trở về nơi họ chạy trốn trước đây một cách cũng "tỉnh queo" để làm ăn với CS trở nên giàu sụ và bắt đầu phản lại đất nước mà họ đẵ được nhận làm người “Tỵ nạn CS” trước đây ....!? Anh chào tay lá cờ vì theo thói quen của một quân nhân, nhưng sâu thẳm hơn vì anh đã quàng biết bao lần lá cờ này lên những áo quan cho những chiến binh đã nằm xuống trả xong nợ non sông, và cũng chính lá cờ này được kéo lên trên những kỳ đài sau những trận đánh kinh hoàng phải đổi bằng hàng chục ngàn sinh linh của đồng đội anh trong những ngày lửa đạnnăm 72. Lá cờ anh cũng đã đổ máu và mồ hôi lẫn nước mắt
cho nó suốt trong những ngày làm chiến binh, kể cả những ngày ngã
ngựa,vào một buổi chiều cúi mặt trong trại tù anh không dám nhìn lá cờ
thân thương này đã trở thành những chiếc quần đùi cho những tên lính "rừng xanh" chơi bóng chuyền nhởn nhơ trước sân trại! Đó, em thấy chưa, họ làm nhục bọn anh bằng mọi cách, mà hẳn một người thường dân bên ngoài như em không hề thấy bao giờ, vì chúng nó biết tụi anh là những kẻ đã từng chịu chết để bảo vệ lá cờ này! Ai hiểu được điều ấy, khi thấy - cho đến bây giờ lá cờ đó vẫn được gắn trên mũ của anh, được đồng hóa với sự "lập dị" - một từ ngữ tàn độc của con người đối với đồng loại mình! Nhưng anh không quan tâm lắm, vì anh tự nghĩ anh không cần phải làm như thế và cũng chả cần ai hiểu mình làm gì khi anh đã viết câu này lên trên tường nhà:"Rien est important au monde!(không có gì quan trọng ở đời này) của một Triết gia để tự vỗ về mình có đủ nghị lực mà tiếp tục đời sống, nếu không anh sẽ điên!
Đó là lý do tại sao anh chỉ gửi cho em bài viết về ngày ANZAC năm ngoái. Đó là lý do tại sao anh muốn khóc khi nhìn những chiến công oai hùng trong những trận đánh long trời lở đất, và những cảnh lầm than trong tù Cải tạo của những người lính VNCH trong những cuốn phim tài liệu nói về chiến tranh VN, bởi vì nơi đó anh đã nhìn thấy anh, đồng đội anh - những người đã chịu sống hết mình cho Đất Nước,mà rốt cùng cũng chẳng ra gì, để đến nỗi phải bị lưu đày và vì sao thì ai cũng đã rõ, ngoại trừ VC, hay thân Cộng ....!
Trong một bài điểm sách trên tờ "Quan Điểm" bên Hoa kỳ, Sử gia Giáo sư Phạm Kim Vinh, vốn là SQ cấp Tá của VNCH ...người đã viết vài chục cuốn sách về cuộc chiến VN bằng tiếng Anh lẫn tiếng Pháp phát hành khắp Thế giới , đã nói về anh khi đọc xong cuốn sách đầu tay của anh, cũng là cuốn sách đầu tiên bằng Việt ngữ phát hành trên xứ Úc này, từ Cộng đồng Tỵ nạn VN có tên “Gửi người bên ấy” với nhiều lời khen tặng với nhiều ưu-ái của người lính đàn anh đi trước, như: “NT là một người đa năng, đa hiệu" và là “một người yêu nước chân chính", rồi ông đã kết luận rằng “Tôi đã không thấy tiếc nuối gì để dành thời gian cho cuốn sách nhỏ bé này” mà anh chỉ dám nhận với lòng e ngại nhưng có thể khả hữu, đó là điều sau cùng:"yêu nước”, vì không phải một mình anh đâu, mà còn bao người thanh niên khác cùng thế hệ, họ không viết thành chữ nghĩa đó thôi! Nội chỉ việc họ chịu tham dự cuộc chiến tàn khốc mà không hề trốn tránh,cho đến giờ phút cuối cùng và đã phải bị hành hạ bởi kẻ thù dã man nhất lịch sử nhân loại mà không hèn hạ chịu làm “chó săn” cho chúng để chỉ-chọt anh em đồng tù hầu mơ được về sớm - thì chúng anh cũng đủ hãnh diện để làm người lính miền Nam rồi ...
Hôm nay, ở đây, xứ Úc cuối nam bán cầu này, trời bỗng dưng đổ sương mù tới trưa mới tan hết làm anh nhớ Đà Lạt vô cùng, quê hương của em trước 75, nơi anh đã vô tình lưu lại chưa được một năm phù-du, mà đã ghi lại trong lòng anh rất nhiều dấu ấn sâu đậm tưởng như không bao giờ nguôi, dù lúc đó anh chỉ đang học lớp Đệ nhất (12) của bậc trung học, nhưng chưa hết niên khóa anh đã bỗng dưng bỏ về Nha Trang trong một chuyến tàu tốc hành lặng lẽ, không hề từ biệt ai kể cả cô bé gốc Huế
con ông chủ tiệm bán đồ Kiến trúc ở dốc Minh-Mạng mà anh từng đến để
kèm Toán cho lớp Đệ tam (10) trong thời gian anh lưu học trên ấy... Anh cũng chả từ biệt bạn bè cùng lớp của anh phần lớn là gái mà anh là tên học sinh duy nhất từ Nha trang mới lên xin học khi trường đã khai giảng một tháng trước rồi, với cái chỗ ngồi nhỏ bé cuối lớp và hình như anh rất ít nhớ tên ai ngoài những nụ cười trả lễ trong những buổi Pinic trong rừng anh chỉ né ra riêng với xấp giấy Croquise
, gói cọ và hộp sơn... ghi lại những gì mình thấy trước mắt bên vài
người bạn thích Hội họa vây quanh, trong đó có một người tên Trâm, tóc dài thần thoại rất mến mộ tài vặt của anh về Văn nghệ, mà sau này anh gặp lại ở Nha Trang để thi nốt phần hai ban Tú tài. Bạn ấy đã tặng lại anh xấp “cours” Triết về “Luận lý học“ chỉ vì bạn ấy đã ghi câu “Ngày sương mù...” cùng đề ngày tháng... ngay trang mà bạn ấy ngồi ôn bài, coi như chút hơi hám về một nơi anh từng trọ học rất ngắn ngủi nhưng ướt đẫm những sương mù... khi ngày nào anh cũng cỡi xe đạp đu theo những chiếc xe chở Su leo dốc Mả Thánh để đến trường mà hai bên đường hoa anh đào rực rỡ đỏ...
Và, như thế “sương mù” - với anh , với em, với cô bạn tóc dài cùng lớp, với cô bé anh kèm Toán ngày xưa...chắc-chắn sương mù đã dính chặt vào trái tim của họ một dấu ấn màu xám trắng như màu chiếc thư rỗng không của em gửi cho anh... màu tuy không rõ nét nhưng không kém sâu đậm của một nơi mà khi ai có ghé qua một lần sẽ không bao giơ quên nó được, chỉ vì nó là “xứ sương mù”... mà anh đã vội vã bỏ đi cũng chỉ để về Nha Trang - sau đó chả bao lâu, anh đã bước vào cõi chênh-vênh của đời lính... Rồi, rốt cuộc kéo theo biết bao nhiêu gian-nan, biến anh thành một kẻ tật nguyền về thể xác (lính) lẫn tâm hồn (tù) mà anh không bao giờ ân hận... dù lúc đó cô bạn cùng lớp với anh, người đã tặng anh xấp Cours Triết ở Nhatrang chỉ vì nó có dính tới một phần đời ngắn ngủi của anh đến Dalat, sau đó nàng có viết cho anh một câu mà anh vẫn nhớ đến bây giờ: “Anh đừng ví kiếp sống anh giống như con chó,Trâm rất đau đớn khi đọc những dòng này “ . Đó là điều làm em sẽ hiểu vì sao anh thích câu “Tổ quốc thân yêu trên đầu tôi đội...” và anh đã chào nó với những giọt nước mắt rưng-rưng trong ngày đầu, khi vừa mới bước chân lên đảo Galang thuộc xứ Indo xa lạ... bên những người Đồng hương khác, họ vẫn. .. rất dửng-dưng....!?
Nguyễn-Tư