HENRI DUNANT - LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA HỘI HỒNG THẬP TỰ
Solferino là một thị xã của Lombardie, tỉnh Mantoue, miền Nam hồ Garde. Ngày 24 tháng 6 năm 1859 trong trận chiến với đơn vị Ý, quân đội Pháp-Sardaigne (đảo miền Nam Ý) chạm trán với quân đội Áo quanh thị trấn Solferino tạo miền Bắc nước Ý.
Ngày hôm đó, một công dân Genève, Henri Dunant, tìm cách gặp vua Napoléon III để hỏi những mệnh lệnh riêng tư. Đêm đến, Dunant tới làng bên cạnh Castiglione nơi đó 9000 thương binh đang trốn. Ngày đêm tại Chiesa Maggiore chất hàng 5000 nguời bị thương, Dunant và những người đàn bà nơi đó cho họ uống nước, lau rửa cho họ và băng bó vết thương, cho họ thuốc lá, nước tisane và trái cây. Dunant nán lại ở đó cho tới ngày 27 tháng 6 rồi lên đường và trở về Genève ngày 11 tháng 7. Lúc bấy giờ ông rất thiếu thốn về tài chánh, nhưng không quên những gì ông đã thấy.
Năm 1862 ông cho in tác phẩm Một Kỷ niệm về Solferino (Un Souvenir de Solferino) trong đó ông mô tả chiến tranh rồi những người bị thương ở Chiesa Maggiore, rồi kết luận bằng một câu hỏi:
Có thể nào có được một phương cách để, trong thời bình thì thành lập những cơ quan cấp cứu mà chủ đích là săn sóc những người bị thương, và trong thời chiến thì những người tình nguyện nhiệt tình, tận tụy và thật rành nghề cho một công tác tương tự?
Từ câu hỏi này dẫn đến sự thành lập hội Hồng Thập Tự. Ông còn hỏi các gới có thẩm quyền của các quân đội có quốc tịch khác nhau trên thế giới xem họ có thể trình bày nguyên tắc quốc tế, có quy ước và thiêng liêng, nguyên tắc mà một khi đã được chấp thuận và được thừa nhận, sẽ được coi là căn bản cho các cơ quan cứu cấp những người bị thương trong các nước khác nhau của Âu Châu? Câu hỏi thứ hai này từ nguồn gốc các thỏa hiệp Genève.
Tác phẩm của Henri Dunant mang lại thành công lớn và được dịch sang tất cả mọi thứ tiếng của Âu Châu và được giới thẩm quyền có ảnh hưỏng nhất thời bấy giờ đọc. Trong số những người đó có Gustave Moynier, luật sư người Genève, chủ tịch một cơ quan địa phương về từ thiện, Cơ quan xã hội Genève (La Société genevoise d' Utilité publique, Geneva Society for Public Welfare ) Ngày 9 tháng 2 năm 1863 ông giới thiệu những kết luận của tác phẩm Henri Dunant cho cơ quan ông. Cơ quan này mở ra một ban gồm 5 thành viên để nghiên cứu các đề nghị của Dunant.
Ủy ban gồm năm thành viên Moynier, Dunant, tướng Dufour và hai bác sĩ Louis Appia và Théodore Maunoir, là nguồn gốc của Ủy ban Quốc tế Chữ Thập đỏ Comité international de la Croix-Rouge (CICR). Ủy ban này họp lần đầu ngày 17 tháng 2 năm 1863. Ngay lập tức ủy ban nhận xét rằng những người tình nguyện do Henri Dunant tưởng tượng sẽ chỉ hành động có hiệu quả, không bị các sĩ quan và quân lính từ chối, khi họ được mang dấu hiệu đặc biệt để phân biệt họ với dân thường và họ phải được bảo vệ. Đó là ý niệm về sự trung lập hóa của cơ quan vệ sinh và các y sĩ tình nguyện.
Ngày 25 tháng 8 năm 1863, Ủy ban Quốc tế quyết định hội họp tại Genève dưới trách nhiệm của họ, một Hội nghị quốc tế để nghiên cứu các phương tiện để bù vào những thiếu thốn của ban Vệ sinh trong quân đội. Ủy ban gởi giấy mời cho tất cả các cơ quan chính quyền các nước Âu châu và tới nhiều nhân vật. Ủy ban gom tụ 36 người, trong số đó có 14 đại diện các nước, 6 đại diện cho các tổ chức và 7 người với danh hiệu tư nhân. Với tính chất ghép giữa dân sự và quân sự, tổ chức đi sâu vô các hội nghị quốc tế của Hồng Thập Tự (La Croix Rouge, The Red Cross) và Trăng Lưỡi liềm Đỏ (Le Croissant Rouge, The Red Crescent). Ngày nay, phái đoàn các cơ quan quốc tế của Croix Rouge và Croissant Rouge, của các nước có chân trong Hiệp ước Genève và các quan sát viên (thường là các cơ quan từ thiện) cùng tham dự.
Hội nghị năm 1863 được Ủy ban quốc tế chuẩn bị thảo luận "dự kiến Concordat" và chấm dứt sau khi soạn ra 10 nghị quyết làm nền tảng cho các cơ quan cấp cứu thương binh: là những cơ quan Chữ Thập Đỏ trong tương lai và sau nữa là Trăng lưỡi liềm Đỏ.
Nghị quyết 10 ủy quyền cho Ủy ban quốc tế trao đổi tin tức giữa các Ủy ban của các nước khác nhau
Trong những năm tiếp theo, các Cơ quan Cứu trợ thành lập: nước Bỉ, Phổ, Đan Mạch, Pháp, Ý, Tây Ban Nha..
Ủy ban quốc tế chuẩn bị giai đoạn kế tiếp cho một cuộc hội nghị ngoại giao. Hội nghị này phải biến các nghị quyết năm 1863 thành các luật theo qui ước, có uy quyền của luật pháp cho những nước đã ký kết.
Nhưng ngày 1 tháng 2 năm 1864, các quân đội Áo-Phổ xâm chiếm Danemark. Đó là bước đầu của cuộc chiến. Ủy ban quốc tế quyết dịnh gởi các đại diện tới tận nơi để săn sóc những người bị thương và nghiên cứu có thể thi hành những kết luận của Hội nghị năm 1863.
Ngày 6 tháng 6 năm 1864 chính quyền Thụy Sĩ (đã chấp nhận tổ chức hội nghị ngoại giao) gởi thư mời tất cả các nước Âu Châu, Hoa Kỳ, Brésil và Mexique.
Hội nghị kéo dài từ 8 tới 28 tháng 8 năm 1864 dưới sự hiện diện của các đại diện của 16 nước. Hôi nghị thông qua dự thảo theo qui ước do Ủy ban quốc tế soạn ra. Ngày 22 tháng 8 năm 1864 hội nghị ký Qui ước cải thiện số phận các thương binh tại chiến trường, nghĩa là cấp cứu những người bị thương. Sau đó Hội Hồng Thập Tự thành lập một cơ quan, có Hiến Chương về Tù Binh phải đối xử nhân đạo với các Tù Binh khi họ bị bắt tại chiến trường. Quyền từ thiện tân thời quốc tế được sinh ra.
Để vinh danh Jean Henri Dunant, người sáng lập ra hội, Âu Châu đồng ý chọn cờ cho Hội này là nền trắng Chữ Thập Đỏ (vì Dunant quốc tịch Thụy Sĩ, cờ màu đỏ có chữ thập trắng).
Cuối năm đó, Quy ước được nhiều nước chấp nhận: Pháp, Thụy Sĩ, Bỉ, Hòa Lan, Ý, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch.
Nhưng chiến tranh Áo-Phổ xảy ra năm 1866. Rồi vài năm sau để đồng nhất hóa Đức, Bismark dự tính phá tan nước Pháp, vậy là chiến tranh Pháp-Phổ bùng nổ năm 1870.
Chính trong cuộc xung đột này mà Ủy ban quốc tế sáng lập ra một tổ chức hướng dẫn số phận các thương binh hay tù binh theo ý muốn của gia đình họ.
Năm 1867 Dunant bị sạt nghiệp vì ông chỉ chú tâm đến vấn đề từ thiện. Sự kiện này làm ông mất hết bạn bè tại Genève. Dunant không còn được đón tiếp tại Genève nữa. Chỉ trong vài năm sau đó, ông sống nghèo nàn như những người ăn mày cho đến cuối đời.
Một cuộc xung đột khác: chiến tranh miền Đông (1875-1878) đã đưa các đại diện của Ủy ban quốc tế tới tận Balkans.
Ủy ban Quốc tế Hồng Thập Tự luôn giữ vai trò chính trong sự phát triển nhân quyền trên thế giới.
(1) "N'y aurait-il pas moyen, pendant une période de paix et de tranquilité, de constituer des sociétés de secours dont le but serait de faire donner des soins aux blessés, en temps de guerre, par des volontaires zélés, dévoués et bien qualifiés pour une pareille oeuvre ? ")
Hiệp ước Genève
Những hiệp ước Genève chào đời ngày 22/08/1864. Ngay trong thời kỳ chiến tranh, mọi người phải tuân theo những quy luật nhằm mục đích tôn trọng nhân phẩm con Người. Những điều luật này phán rằng người dân sự sẽ không bị liên lụy trong các trận đánh và người quân sự ngoài cuộc chiến phải được bảo vệ, người bị thương phải được cứu cấp không phân biệt chủng tộc hay quốc gia và nhân phẩn của họ phải được tôn trọng.
. Hiệp ước đầu tiên liên quan đến việc bảo vệ những thương bệnh binh các quân lực trên chiến trường
. Hiệp ước thứ hai liên quan đến việc bảo vệ những binh sĩ bị bịnh, bị thương và bị đắm tàu của các lực lượng chiến đấu trên biển.
. Hiệp ước thứ ba liên quan đến cách xử sự với các tù nhân chiến tranh.
. Hiệp ước thứ tư bàn về việc bảo vệ thường dân.
Henri Dunant (1828-1910), nhà bác ái Thụy Sĩ, sáng lập Hội Hồng Thập Tự, Giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1901
08/05/1828: Sinh tại số 12 đường Verdaine, Genève. Cha của Jean-Henri là Jean-Jacques Dunant, thương gia, thẩm phán phòng Giám hộ phụ trách trông coi số phận các trẻ mồ côi. Mẹ, Antoinette Colladon, rất mộ đạo, lo việc từ thiện.
Là học sinh kém, cậu Henri chỉ mang về những phần thưởng về lòng ngoan đạo. Cậu đi thăm những người nghèo, bệnh nhân và tù nhân. Ham đọc Thánh kinh, năm 1847 cậu thành lập một nhóm đọc kinh thánh với những người cùng tuổi tên là Họp mặt thứ Năm, nhóm này, năm 1852 sẽ rở thành "Hội liên hiệp Thiên chúa giáo những người trẻ" (les Unions chrétiennes de jeunes gens).
1849: Henri Dunant bắt đầu học nghề tại nhà băng Lullin&Suter và được gởi đi làm việc tại Algérie. Ông mơ ước làm phồn thịnh và kỹ nghệ hóa nước này. Năm 1855 chính quyền Pháp chấp nhận nhường đất Algérie cho ông lần đầu tiên. Ông xây một cối xay gió nhưng không nhận được câu trả lời về việc phát triển trong tương lai của ông trong lãnh vực này
08/01/1858: Hội đồng nhà nước Genève cho phép công ty vô danh Moulins de Mons-Djemila do Dunant thành lập.
Năm 1858 ông in quyển sách đầu tiên, Notice sur la Régence de Tunis [An Account of the Regency in Tunis], viết lại những quan sát khi ông du lịch, trong đó có một chương dài rất được độc giả chú ý.
Năm 1863 ông in rời ra thành cuốn Sự nô lệ nơi những người hồi giáo và tại Mỹ (L'Esclavage chez les musulmans et aux États-Unis d'Amérique, Slavery among the Mohammedans and in the United States of America).
4/1859: Lập luận rằng vì xuất thân từ một gia đình bị trục xuất ra khỏi nước Pháp vì lý do tín ngưỡng, ông xin được vô quốc tịch Pháp để tiến hành nhanh công việc đang ứ đọng tại Algérie.
25/06/1859: Không được cơ quan hành chánh trả lời về chuyện thuộc địa của ông tại Algérie, Dunant sang Paris để trình bày trước Napoléon III, nhưng lúc đó Napoléon đã tới nước Ý để cầm binh giao chiến với nước Áo. Trận chiến Soferino gồm phe Đồng minh là vua Napoléon III và Victor-Emmanuel II de Savoie, và phe địch là vua François-Joseph Ier nước Áo. Ngày 24 tháng 6 năm 1859, 9 quân đoàn với 250-250 ngàn binh sĩ Áo đánh với 104 ngàn lính Pháp (trong số đó có 35 ngàn lính Sardes mà vua Victor-Emmanuel vừa mới thu dụng được). Trận chiến xảy ra rất nhanh nhưng rất nhiều người chết, mất tích và bị thương, cả thảy khoảng 40 ngàn người vì Pháp và Áo đều dùng những lính pháo binh và đại bác.
Dunant lại quay qua Ý để tìm gặp Napoléon, nhưng khi tới làng bên cạnh Castiglione, ông chứng kiến 9000 thương binh đang trốn và tại Chiesa Maggiore nằm la liệt hàng 5000 nguời bị thương rên siết đau đớn. Dunant đã thuyết phục những người địa phương giúp đỡ ông cho thương binh của cả hai bên uống nước, lau rửa và băng bó vết thương, cho họ thuốc lá, nước tisane và trái cây. Dunant nán lại ở đó cho tới ngày 27 tháng 6 rồi lên đường và trở về Genève ngày 11 tháng 7. Lúc bấy giờ ông rất thiếu thốn về tài chánh, nhưng không quên những gì ông đã thấy và viết quyển Un souvenir de Solférino (A memory of Solferino, Hồi ký từ Soferino).
Napoléon III tại trận chiến Solferino. Ernest Meissonnier 1863 (Musée du Second Empire, Compiègne).
Quyển Hồi ký từ Solferino có 3 chủ đề: Thứ nhất là chính cuộc chiến. Chủ đề thứ hai vẽ lên chiến trường sau trận đánh, cái hỗn độn vô thứ tự của nó, sự thất vọng không thể nói ra được, sự khốn khổ về mọi thứ và nói tới câu chuyện chính là gắng cứu chữa những người bị thương trong một làng nhỏ của Castiglione. Chủ đề thứ ba là một phương án. Các quốc gia phải tạo một phương cách để, trong thời bình thì thành lập những cơ quan cấp cứu mà chủ đích là săn sóc những người bị thương, và trong thời chiến thì những người tình nguyện nhiệt tình, tận tụy và thật rành nghề cho một công tác tương tự.
Năm 1862 Dunant cho in quyển Hồi ký này trong đó ông mô tả chiến tranh và những người bị thương ở Chiesa Maggiore, rồi kết luận bằng một câu hỏi:
Có cách nào để thành lập những cơ quan cấp cứu trong thời bình, tìm những người tình nguyện nhiệt tình, tận tụy và thật rành nghề để săn sóc những người bị thương trong thời chiến không? (N'y aurait-il pas moyen, pendant une période de paix et de tranquilité, de constituer des sociétés de secours dont le but serait de faire donner des soins aux blessés, en temps de guerre, par des volontaires zélés, dévoués et bien qualifiés pour une pareille oeuvre ?)
Từ câu hỏi này dẫn đến sự thành lập hội Hồng Thập Tự. Ông còn hỏi giới có thẩm quyền của các quân đội có quốc tịch khác nhau trên thế giới xem họ có thể trình bày nguyên tắc quốc tế, có quy ước và thiêng liêng, nguyên tắc mà một khi đã được chấp thuận và được thừa nhận, sẽ được coi là căn bản cho các cơ quan cứu cấp những người bị thương trong các nước khác nhau của Âu Châu? Câu hỏi thứ hai này từ nguồn gốc các thỏa hiệp Genève.
Tháng Hai ngày 7 năm 1863 Cơ quan xã hội Genève chỉ định 5 người trong đó có Dunant, quan sát tình hình để hành động. Với lời kêu gọi của cơ quan này trong hội nghị, hội Hồng Thập Tự ra đời. Dunant đi khắp Âu châu và được các nước hứa sẽ gởi đại diện. Hội nghị ngày 26 kéo dài tới 29 tháng 10 với 39 đại biểu của 16 nước. Đến tháng 8 năm 1864, 12 quốc gia ký kết hiệp ước quốc tế, đó là Hiệp ước Genève.
09/02/1863: Cơ quan xã hội Genève quyết định thực hành ý định của Hôi ký Solferino và hình thành một "Ủy ban quốc tế cứu trợ những người bị thương". Đây là mầm móng cho CICR tương lai (Comité international de la Croix-Rouge). Dưới sự hiện diện của tướng Dufour. Ủy ban họp với bác sĩ Docteur Louis Appia, Théodore Maunoir, Gustave Moynier và Henri Dunant.
1863-1864: Dunant đi khắp âu Châu để loan truyền ý tưởng của ông cho các cơ quan tình nguyện cứu trợ những người bị thương.
Từ ngày 26 đến 29/10/0863, một hội nghị chuẩn bị họp hội các đại diện của 14 quốc gia tại Athénée, Genève.
Hội nghị ngoại giao từ ngày 8 tới 22/8/1864 đưa đến Hiệp ước Genève trong đó có 10 điều trong hiến chương của Hội Hồng Thập Tự sau này.
1867: Đáng lẽ Dunant được mời tới triều đình nước Phổ để được quàng vòng hoa vinh quang nhân cuộc Triển lãm Hoàn vũ Paris thì ông lại dấn thân vào những kinh doanh may rủi (công ty nặc danh Moulins de Mons-Djemila). Ông bị phá sản. Các tòa án Genève kết án ông đã "cố tình đánh lừa các cộng sự viên của ông". Sau khi bị phá sản tan tành, Gustave Moynier ép buộc ông phải từ chức khỏi Ủy ban. Ông thi hành việc này ngày 25/08/1867 và từ giã Genève để rồi không bao giờ trở lại.
1867: cho ra "Thư viện quốc tế toàn năng " (International and Universal Library) nhằm phổ biến các đại tác phẩm của mọi nền văn hóa qua mọi thời gian và có ý qua trung gian của Ủy ban, cho Palestine mà ông đã sáng lập dùng để ưu đãi những người Do Thái về Palestine bằng cách thiết lập hai quốc gia Arabe và Do Thái, được Napoléon III bảo trợ. Song song với việc trên, ông cũng sáng lập Cơ quan quốc tế toàn năng để khôi phục miền Đông (Société internationale universelle pour la rénovation de l'Orient, the Universal and International Society for the Revival of the Orient) nhằm tìm một phương án để tạo ra một khối trung lập ở Palestine.
Bị ra khỏi Hội, ông qua Pháp, xin lại quốc tịch Pháp và sống tại Paris với nữ nghệ sĩ Sarah Bernhardt, sau này làm nữ cứu thương cho Hội.
1870-1871: Chiến tranh xảy ra giữa Pháp-Đức. Dunant thấy rằng cuộc chiến tranh mới này là cơ hội để ông phục vụ cho nhân loại một lần nữa. Ông lập ra một tổ chức song song với Hồng Thập Tự, Cơ quan phụ trợ cứu những người bị thương (Société auxiliaire de Secours aux bléssés), và chắc chắn vì thấy những cuộc tàn sát kèm theo quận Paris bị mất, nên ông triệu tập cuộc họp để thành lập một "Liên Minh toàn năng cho trật tự và văn hóa" (Alliance universelle de l'ordre et de la civilisation) để nói lên sự cần thiết của một hiệp ước quốc tế về việc nắm giữ các tù binh chiến tranh và để dàn xếp các cuộc tranh chấp quốc tế nhờ tòa án làm trọng tài hơn là gây chiến tranh. Ông xoay sở để sống, viêt những bài tiểu luận... Bị ám ảnh hoàn trả số nợ lớn, ông mơ thành lập những hãng xưởng kỳ diệu chỉ có trong trí tưởng tượng mà thôi.
Năm 1872 và 1873, bên Anh quốc, Dunant buộc phải kích thích công luận về vấn đề các tù binh chiến tranh cho Hội Hồng Thập Tự lúc bấy giờ do Gustave Moynier lãnh đạo, nhưng chỉ mới bắt đầu. Ông định truyền bá ý tưởng cho một tòa án làm trọng tài để giải quyết những cuộc đụng độ quốc tế (Société d'arbitrage des Nations).
Từ năm 1874 đến 1886, Dunant lang thang nghèo khổ khắp Âu châu, giữa Stuttgart, Rome, Corfou, Bâle và Karlsruhe. Ông nợ nần và bị ủy ban Hồng thập tự Quốc tế bỏ rơi cho dù ủy ban các nước Áo, Hòa Lan, Thụy Điển, Phổ, Tây Ban Nha vẫn để ông làm hội viên danh dự. Có một số mạnh thường quân vẫn giúp đỡ như Charles Bowles, Jean-Jacques Boucart Max Gracia, nhất là với một bà góa giáu có Léonie Kastner-Boursault, vợ nhà soạn nhạc Jean-Georges Kastner. Bà nhờ Dunant thương phẩm hóa chiếc Pyrophon do con trai bà là Friedrich Eugen Kastner sáng chế. Pyrophone là "đàn lửa", một dụng cụ âm nhạc mà âm thanh phát ra do những tiếng nổ của lửa. Năm 1875 ông du lịch với Léonie sang Ý.
Tại Stuttgart, ông kết thân với Rudolf Muller và nhờ đó ông biết thành phố Heiden. Sau đó ông chơi thân với hai vợ chồng Wilhem và Susanna Sonderegger. Hai người này khuyến khích ông kiểm lại và in tập hồi ký thành sách và ngày 27 tháng 2 năm 1880, ông thành lập chi nhánh Hồng Thập Tự tại Heiden. Ông trở thành giám đốc danh dự cho hội này.
1892: Ông muốn thực hiện việc viết bài tự thuật của mình, nhưng đã mòn mỏi vì cuộc sống nay đây mai đó và vì là nạn nhận của sự hành hạ không ngừng nên ông không thể sắp thứ tự những ý tưởng của mình. Quyển "nhật ký" của ông hãy còn là một hỗn độn dở dang.
Sau gần 20 năm lang thang khắp châu Âu, ông trở lại Suisse, nhưng không tới Genève, mà ở tại Heiden, một bang của Appenzell, trong nhà thương thí tên là Ký túc xá Thiên đường (Pension Paradis) để chữa bệnh ngoài da và chứng trầm cảm.
Mãi đến năm 1895, Georg Baumberger chủ biên tập trẻ tuổi người Áo của báo Die Ostschweiz xã Saint-Gall mới phát hiện ra ông. Georg Baumberger viết bài phỏng vấn tựa đề "Henri Dunant, sáng lập viên Hội Hồng thập tự" trên tờ báo Đức "Trên đất và biển" (Sur terre et mer). Bài báo được truyền ra khắp châu Âu, gây phản ứng khắp nơi trên thế giới. Ý tưởng của Dunant đã thay đổi, ông không chỉ muốn có bộ luật chiến tranh mà còn chống lại với chính chiến tranh bằng cách cộng tác với các tờ báo chuộng hòa bình và viết bài "Tương lai đẫm máu", lên án chế độ phong kiến và nghiên cứu khoa học nhằm mục đích chiến tranh. Mọi người nhớ lại ông, gởi cho ông nhiều thiện cảm và được toàn thể thế giới ủng hộ. Ông lại trở về với công chúng tuy Hội Hồng Thập Tự tại Genève vẫn còn lánh mặt ông.
Dunant được giải thưởng Binet-Fendt và sự biết ơn của Giáo hoàng Léon XIII. Nhờ tiền cấp dưỡng của bà sa hoàng Maria Fedorovna và nhiều trợ cấp khác, ông thoát khỏi cảnh nghèo khó nhanh chóng.
Năm 1899 ông cho in tác phẩm Đề nghị Hoàng đế Nicolas II (Proposition à sa majesté l'Empereur Nicolas II). Đó là tác phẩm cuối cùng của ông.
Năm 1901, ông được giải Nobel chung với Frédéric Passy, một chính trị gia Pháp, người sáng lập ra Hội Trọng tài các Quốc gia (Société d'arbitrage des Nations), tổ tiên của Liên Hiệp Quốc (ONU).
08/05/1908 : Cả thế giới làm lễ sinh nhật thứ 80 của ông.
30/10/1910: Ông mất ở tuổi 82. Nhờ tiền giải thưởng, ông để lại tờ di chúc: lập ra một cái giường vĩnh cửu cho người nghèo khó tại bệnh viện Heidn, nơi mà ông đã sống những năm cuối đời, và những cơ quan từ thiện. Tro ông được rải ở Zurich theo ý muốn của ông.
Võ Thị Diệu Hằng