Trần Thùy Mai
Một
người bạn Nhật kể lại với tôi rằng trong suốt mấy mươi năm sau khi Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để mất, bà Ando Chie sống trong một căn hộ đơn sơ, và
giữ mãi trên vách những bức hình của ông….
Tôi
rất muốn được tận mắt nhìn nơi đó, nhưng khi tôi đến Tokyo vào năm
2007, bà đã qua đời trước đó không lâu. Cũng may tôi đã đến nghĩa trang
Zoshigaya nơi bà chôn nắm tro của nhà chí sĩ Việt Nam.
Hôm
đó là một ngày tháng Tư, trong nghĩa trang có hoa anh đào nở. Tôi hình
dung bóng Ando Chie lủi thủi một mình. Trong cảnh vắng lặng, những ngày
tháng giữa Cường Để và Ando Chie bắt đầu hiện ra trong tôi. Một câu
chuyện về tình yêu và phận người.
Về
phong trào Đông Du, khởi đầu, kết thúc và vai trò lịch sử của nó thì có
lẽ ai cũng biết rồi. Tôi chỉ muốn viết về một trái tim ngọt ngào mà
Trời đã đem đến cho một người đàn ông trong bước đường cùng.
… Như một ân sủng làm dịu đi nỗi rát bỏng của định mệnh.
Nhà văn Trần Thùy Mai
*****
NƠI CÓ NHỮNG CÂY TÙNG XANH BIẾC
Ando
Chie cúi xuống, nhúng ngón tay vào chậu nước. Nước ấm vừa đủ tắm. Nàng
kéo màn che cửa sổ. Ngoài kia, một cây anh đào vừa nở, những nhành
hoa rủ xuống trắng hồng.
- Xin ngài vào tắm kẻo nước nguội.
Giọng nàng nhỏ nhẹ và lễ phép.
Ngoài
ba mươi tuổi, Chie mạnh khỏe và bầu bĩnh trong bộ kimono giản dị màu
lam. Là người giúp việc cho hoàng thân Cường Để, cô đến ở đây đã hai
năm theo sự bố trí của Đại tá Wanatabe.
Năm
ấy Hoàng thân đã ngoài năm mươi tuổi, dáng vóc nho nhã nhưng khuôn mặt
gầy đượm buồn. Ông chăm chú viết, những chữ Nho chân phương rất đẹp
trên giấy trắng. Thấy Chie, ông ngẩng lên, vẻ mặt ngần ngừ:
- Lại tắm. Ta mới tắm hôm kia...
Chie
mỉm cười. Ông hoàng Việt Nam này rất lười tắm gội. Người Nhật vốn rất
sạch sẽ . Bao giờ cũng thế, Chie rất cương quyết với ông.
Chie
đến gần, đặt tay lên nút áo ông. Chiếc áo năm thân màu nguyệt bạch với
rất nhiều khuy vải. Ở Nhật đã hai mươi năm, ông vẫn mặc áo Việt. Những
chiếc áo ông đem theo từ Việt Nam đã cũ nát từ lâu, chiếc áo này là do
Chie phỏng theo áo cũ để may cho ông, kiểu áo Việt trên nền lụa Nhật.
Nhưng hôm nay, ông hoàng dường như trái tính hơn mọi ngày. Ông chùn lại, xua tay, ánh mắt đầy nghi kỵ:
- Để ta yên!
Từ
lúc Chie mới đến đây, ông vốn đã không tin nàng. Ông không cho nàng sắp
xếp thư từ giấy tờ trên bàn ông, dù chúng thường rất lộn xộn. Mỗi lần
đau ốm, ông cố giấu không cho nàng săn sóc.
Chie
là người do quân đội Nhật cử đến. Ông nghi kỵ nàng nhưng không thể từ
khước nàng. Ông khư khư không cho nàng chạm tới đống thư từ, nhưng lại
quá cần nàng thu dọn giường nằm bề bộn, pha cho ấm trà buổi sáng, khâu
lại áo xống, cả ánh mắt cương quyết của nàng mỗi lần bắt ông đi tắm…
Nhưng
hôm nay nhìn vẻ mặt ông, Chie lẳng lặng không nài ép gì nữa. Nàng quay
ra một lúc rồi trở vào với khay trà - Nàng đã quen, những lúc căng
thẳng thế này chỉ có một ấm trà Tàu mới có thể làm ông dịu lại.
Bước qua ngạch cửa, nàng khựng lại. Kỳ ngoại hầu Cường Để, hoàng đích tôn đời thứ 5 của vua Gia Long đang bưng mặt khóc.
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để
Ando
Chie vội vã đặt khay xuống án thư, chạy đến đỡ lấy mái tóc chớm bạc
đang rũ rượi gục về phía trước. Tấm thân gầy mỏng của người đàn ông như
muốn sụp xuống trong tay nàng.
- Điện hạ, hoàng tử...
Chie
cứ nghĩ ông sẽ đẩy nàng ra. Nhưng lần này Cường Để chỉ ngẩng lên, mắt
nhìn sững vào khoảng không trước mặt. Nàng nhẹ nhàng chặm những giọt
nước ứa ra quanh đôi mắt thất thần. “Có chuyện gì...?”.
Cường Để không kiềm chế được, khóc nức lên. “Bác Phan mất rồi!”.
Tại
Tokyo một buổi chiều tháng tư, Cường Để nhận được thư báo. Phan Bội
Châu, người đã tìm đến ông khi ông mới hai mươi mốt tuổi, đã tôn ông làm
minh chủ của phong trào Đông du chống Pháp. Người đã đón ông sang Nhật
để tính chuyện phục quốc lâu dài. Việc Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải
đã là một đòn quá mạnh đối với ông. Từ ngày ấy, ông không thôi cảm thấy
lạc lõng, hoang mang; cảm giác thối chí
thỉnh thoảng lại ám ảnh ông, ông phải hết sức chống lại.
Bây
giờ Phan Bội Châu đã mất. Hơn ba mươi năm lưu vong trên đất Nhật, bao
nhiêu ý chí, nghị lực của ông dường như được truyền từ sức mạnh tinh
thần của con người này. Vậy mà giờ đây người ấy không còn nữa. Số phận
đã bỏ rơi ông giữa một thế giới mênh mông xa lạ, trong cảnh tiến thoái
lưỡng nan.
Không
phải là chuyện có thể chia sẻ với Ando Chie, nhưng biết nói cùng ai ở
nơi lữ thứ này. Phong trào Đông du đã tan rã, Trần Đông Phong đã tự
vẫn, Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Siêu đã trốn đi, chỉ còn mình ông trơ trọi
giữa trời cùng đất tuyệt.
Chie cố gắng an ủi ông, dù không biết người chết là ai. Nàng dìu ông vào giường, đắp chăn, buông màn cho ông.
“Để mặc ta”. Cường Để nói, xua tay, quay mặt vào góc tối.
Chie gật đầu, nàng ém màn vào dưới nệm, bước lùi mấy bước.
“Chie, đừng đi!”
Ông
ta bíu lấy tay nàng. Chie cảm thấy tất cả nỗi cô đơn, hoảng loạn của
người đàn ông. Nàng cúi xuống, lồng tay vào chăn, ôm lấy ông vỗ về, bất
giác nàng cũng rơi nước mắt.
“Thiếp
thương Điện hạ lắm”. Chie nói, những tiếng rất giản dị, nàng biết rõ
Cường Để không giỏi tiếng Nhật, và nàng cũng không biết lời an ủi nào
hơn. Nhưng linh cảm dạy cho nàng biết phải làm gì: Nàng ghé nằm bên ông
và ấp ủ ông bằng thân thể ấm áp của mình.
*
Đêm
ấy trời mưa, khi trời sáng Chie cuốn màn, mở hé cửa sổ, nàng nhìn thấy
những cành anh đào sũng nước. Nàng đặt chậu nước nóng cạnh giường, nhúng
chiếc khăn bông trắng muốt rồi vắt thật ráo. Người đàn ông của nàng đã
tỉnh giấc. Nàng cúi xuống, mỉm cười dịu dàng, lau mặt cho ông.
Kỳ
Ngoại Hầu nắm lấy tay nàng, vẻ mặt ông lộ vẻ biết ơn. Chốc lát, ông
quên người đàn bà này là người của quân đội Nhật. Ba mươi năm lưu lạc
trên
đất nước này, ông đã nhiều lần được chở che. Ông Innukai và Kashiwabara
đã bảo bọc ông, thuyền trưởng tàu Yayomaru đã hết lòng che chở ông
thoát khỏi sự truy lùng của mật thám Pháp. Đó là chuyện hai mươi, ba
mươi năm trước. Lúc đó ông còn trẻ, chí khí còn
hăng hái; gần mười năm nay, từ khi Innukai bị ám sát rồi, ông quá chật
vật với cuộc sống, cô đơn, mệt mỏi. Phải nhận sự bảo trợ của lục quân
Nhật là bất đắc dĩ, ông không thể không dựa vào người Nhật, nhưng ông
biết Nhật và Pháp có thể bắt tay với nhau bất
kỳ lúc nào. Ando Chie có phải là tai mắt của quân Nhật không? Ai biết
đâu được. Dù sao lúc này bên ông chỉ còn có nàng thôi, giờ phút này nàng
đang dịu dàng lau mặt ông, cảm giác được chăm sóc làm ông bùi ngùi ứa
lệ.
Chie chuyển dần chiếc khăn nóng xuống cổ và ngực ông, nàng nhẹ nhàng mở khuy áo để lau vai và lưng. Bỗng Cường Để buột miệng:
- Về Việt Nam! Ước gì ta được về Việt Nam!
Chie khựng lại một giây, rồi nàng hiểu, nàng nhẹ vỗ vào lưng ông như dỗ dành:
- Rồi ngài sẽ về, nhất định có ngày ngài sẽ về mà.
Ông
hoàng lưu vong cảm thấy ấm lòng, ông siết chặt tay nàng như muốn cảm
ơn. Trong lúc đó Chie lại thấy lòng âm thầm một nỗi buồn. Ông sẽ đi, sẽ
xa nàng, chắc chắn sẽ có ngày ấy...
Cuối
tháng, Đại tá Wanatabe gặp Ando Chie ở Bộ Tư lệnh lục quân. Như thường
lệ, Chie nói với ông về tất cả những sinh hoạt của Cường Để. Wanatabe
hỏi:
- Cô có thấy ông ta tiếp khách khứa từ xa tới không?
- Không ạ.
- Ông ta có nhận thư từ, tin tức gì từ Việt Nam?
- Không ạ.
Chie
trả lời, chắc chắn đến nỗi Wanatabe không hỏi thêm gì nữa. Ông ta nhìn
Chie từ đầu đến chân như muốn đánh giá lại quan hệ giữa nàng và người
ngoại quốc lưu vong ấy. Chie đỏ mặt, nàng hiểu cái nhìn của Đại tá.
Chắc chắn là ông ta rất khuyến khích việc nàng lên giường với người đàn
ông kia, điều đó rất có lợi cho công việc. Chỉ có điều, ông ta không
biết hôm qua nàng đã ủ ấm cho Cường Để, không phải
với tư cách một nhân viên của lục quân Nhật, mà với tất cả tấm lòng của
một người đàn bà.
Năm năm sau.
Chiến
tranh khốc liệt trên khắp đất nước hoa anh đào. Những trận bom Mỹ dội
xuống. Những ngôi nhà bằng gỗ và giấy cháy phừng phừng trong các góc
phố Tokyo.
Đang
mùa lá đỏ nhưng chẳng còn ai nghĩ đến lễ hội mùa thu... Chỉ còn những
đoàn người tản cư dắt díu nhau chạy. Ando Chie gói quần áo vào hai chiếc
tay nải. Vội vàng, nhưng nàng không quên những chiếc áo lụa năm thân,
áo dài the, khăn xếp, và cả bộ bình trà tàu nhỏ xíu.
- Ông ơi!
Chie
gọi. Hoàng thân giật mình, quay ra. Hôm nay ông mặc Âu phục chỉnh tề.
Trong cảnh chộn rộn của Tokyo, vẻ chỉnh tề của ông trông thật lạc lõng.
“Mình đi thôi, ông ạ. Mọi người đều tản cư về quê, chiều nay là chuyến chót”.
Hoàng thân hốt hoảng:
- Nhưng ta còn phải chờ máy bay... Biết đâu ngày mai máy bay sẽ tới.
Chie
nhìn ông, xót xa. Cuối tháng 7, Nội các Suzuki Kantaro đã tổ chức bữa
tiệc linh đình đưa ông về nước. Sau 32 năm xa quê, cái tin được về nước
làm ông bàng hoàng. Trong bữa tiệc linh đình tại khách sạn Đế Quốc, ông
hân hoan từ giã hết các chính khách đã ủng hộ ông... Mãi đến lúc sắp ra
sân bay Haneda, cầm gói thức ăn đi đường từ tay Chie, ông mới nhìn thấy
vẻ buồn trong mắt nàng. “Đừng buồn Chie,
ta về nước rồi sẽ tính chuyện đón nàng sang”.
Chie
mỉm cười. Ở Việt Nam, ông còn có người vợ cả và hai con nay đã lớn.
Người vợ mà ông đã xa cách từ năm 25 tuổi. Ông sắp về với người đàn bà
ấy. Nàng cảm thấy buồn, nhưng nàng mừng cho ông.
Ngày
hôm ấy ông đi, rồi đến tối mịt lại quay về. Ông kể, trên sân bay, nhân
viên Bộ Tham mưu lục quân Nhật và ký giả báo chí tề tựu để tiễn chân
ông... Nhưng máy bay từ Sài Gòn không đến đón. Ông quay về, ngã vật
trên giường, mắt mở trừng trừng nhìn lên cao... Chie tháo giày cho ông,
lau mặt cho ông. Nàng nhỏ nhẹ bảo ông: “Ông ạ, đừng buồn, chắc máy bay
bị trở ngại gì đó thôi, mai lại đến ấy mà!”
Từ
đó hôm nào nàng cũng quấn sushi cho ông đem theo... Hôm nào ông cũng ra
phi trường Haneda, hôm nào ông cũng trở về. Hơn năm hôm sau, nhân viên
lục quân lẫn ký giả không còn ai đến nữa, chỉ còn ông ngày ngày một
mình ngồi đợi. Lủi thủi tới, rồi lủi thủi về.
Và
hôm nay, ngày cuối tháng 7, bom B29 của Mỹ đã trút xuống Tokyo, ông vẫn
còn nghĩ đến chuyện đến phi trường chờ đợi. Chie bảo ông:
- Mình phải đi thôi ông ạ! Phải chạy về quê, nếu không là chết.
- Đúng rồi, nàng cứ đi, ta ở lại, biết đâu...
Chie
nắm lấy tay ông. Bàn tay ông gầy quá. Với mọi người, ông là một Hoàng
thân, được các cơ quan tiếp đón, các ký giả săn tin, được các nghị sĩ
bảo trợ... Còn với nàng, đây là một người đàn ông tha hương, lạc lõng,
túng thiếu, cô độc... Lúc này, nàng nhất định phải cứng rắn với ông, như
những lúc bắt ông phải đi tắm vậy; nàng khoác tay nải lên vai ông và
đẩy ông đi. Cường Để gượng lại, phản đối, nhưng
khi bị đẩy đến cửa, dòng người tay xách nách mang chạy loạn đập vào mắt
ông, và ông hiểu ngay điều gì đang xảy ra.
Đêm
đó trên chiếc xe bò lắc lư trong dòng xe qua vùng ngoại ô, ông nhìn
thấy Tokyo bốc cháy, lửa rực đỏ dưới những lằn máy bay Mỹ vút ngang. Căn
nhà mà lục quân Nhật cấp cho ông đã cháy rụi.
Tháng
tám, bom nguyên tử dội xuống Nagasaki và Hiroshima, Nhật Bản đầu hàng.
Không còn ai đủ sức nghĩ đến vị hoàng tử lưu vong. Chỉ có một người
đàn bà thầm lặng mỗi ngày làm thuê cho một xưởng than ở vùng quê để
nuôi một người chồng lớn tuổi. Ando Chie lúc này không còn là nhân viên
của lục quân Nhật nữa. Buổi sáng, nàng thức dậy nấu nước nóng cho chồng
rồi tất tả đi; nàng vẫn thế, dù làm ở xưởng
than nhưng lúc nào về nhà cũng rất sạch sẽ, còn chồng nàng vẫn vậy, rất
lười tắm và suốt ngày ngồi chép những trang sách chữ Hán đã cũ nhàu.
Nhiều
người hỏi sao ông chồng nàng chẳng làm việc gì mưu sinh, Chie chỉ cười.
Ông ấy là một ông hoàng, dù rất nghèo và chẳng hề có quyền uy. Ông
chẳng làm được gì cho nàng cả, nhưng nàng yêu thương ông với tất cả sự
trìu mến xót xa. Trong lúc ông thì đau đáu chỉ muốn về quê hương - nghĩa
là rời xa nàng. Nhưng nếu ông không có giấc mơ hồi hương, liệu ông có
còn là người đàn ông mà nàng thương yêu không?
*
Năm năm sau. Cơ hội về nước lại đến. Ando Chie lại chuẩn bị hành lý cho Cường Để lên đường.
Nước
Nhật đã trở lại thanh bình. Trước ngày Cường Để về nước, bạn bè làm
tiệc tiễn đưa. Ký giả báo Asahi cũng đến dự. Cụng ly mừng, nhà báo ngỏ
ý muốn đưa tin chuyến trở về của vị hoàng thân sau gần 40 năm biệt xứ.
Chuyến
đi lần này bằng đường biển, từ cảng Kobe đáp tàu Hải Minh đến Bangkok
rồi theo đường bộ qua Kampuchea về Tây Ninh. Vì sao phải về nước qua
cửa khẩu Tây Ninh ? Vì Việt Nam đang thời kỳ chiến tranh Việt Pháp,
Pháp vẫn còn đóng quân ở Nam kỳ. Nhưng Tây Ninh nằm trong lãnh địa của
Giáo chủ Phạm Công Tắc. Với sự bảo trợ của Phạm Công Tắc, ông có thể lên
bờ an toàn.
Ký giả Asahi dặn dò:
- Khi ngài tới nơi rồi, xin điện ngay cho tôi biết.
Cường Để ngẫm nghĩ:
-
Trong nước hiện đang chiến tranh, tin tức khó gửi. Có lẽ cứ tính theo
hải trình, đến trung tuần tháng bảy thì bỉ nhân đã đến quê nhà, quý ông
có thể đưa tin được rồi.
Ando
Chie đưa ông đến bến cảng. Mùa thu, khí trời se lạnh. Tiếng quạ kêu
vang sau những tàn cây lá đỏ. Ông đi rồi, Chie trở lại căn hộ hai phòng
ở phố Ogikubo. Con đường bỗng dài hơn bao giờ hết. Ông hứa sẽ có ngày
đón nàng sang Việt Nam. Lúc đó nàng chỉ bảo: “Bao lâu cũng được”. Đến
bây giờ, một mình trên con đường về nhà, nàng mới thấm thía cả khoảng
trống trơ vơ trước mặt, rằng có thể nàng sẽ mãi
mãi một mình trên đoạn đường còn lại...
Nàng tiếp tục khâu những con búp bê vải - những con búp bê đã nuôi sống nàng và ông từ lúc về lại Tokyo.
Đến tối, chủ nhà, bà Hashimoto gõ cửa hỏi thăm nàng. Bà đem vào cho nàng một gói bánh dẻo.
“Trông em xanh quá. Tôi pha cho em một chén trà nóng nhé?”.
Chie
uống chén trà từ tay bà chủ nhà tốt bụng. Trà nóng làm nàng hồi tỉnh.
Nhìn hộp bánh dẻo xinh xắn, nàng nhớ đến chồng. Ông ấy vẫn thích loại
bánh này. Nhưng dùng trong khi uống trà tàu - Ông vẫn không quen với
trà Nhật.
Bây
giờ ông ấy đi đến đâu rồi nhỉ? Bà Hashimoto vuốt tóc nàng, dẫn nàng
sang phòng làm việc của chồng bà, Giáo sư Hashimoto Masukichi. Trên
vách,
giữa những tủ sách đồ sộ là tấm bản đồ châu Á. Bà chỉ cho Chie xem chỗ
nào là Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam. Chie chăm chú nhìn. Chồng nàng đang
ở trên vùng biển xanh xanh kia, ngoài khơi cái khối màu hồng rất lớn mà
bà Hashimoto bảo là nước Trung Hoa.
“Em đừng buồn, rồi ông ấy sẽ đạt chí nguyện, sẽ trở lại đón em sang, em phải gắng giữ sức khỏe nhé!” Bà Hashimoto an ủi.
Chie
mỉm cười, nàng cúi đầu thật thấp tỏ lòng cảm ơn bà chủ. Chiều hôm ấy
nàng đến chùa Senso, bên chiếc đỉnh lớn nghi ngút khói nhang giữa sân
chùa nàng vớt nhẹ khói hương ủ vào nơi lồng ngực. Lần trong tay áo,
nàng lấy ra số tiền nhỏ, đủ cúng dường để xin một lời nguyện cầu.
Vị
sư già hỏi nàng cầu nguyện gì để ghi vào tấm thẻ gỗ trắng ngà. Nàng cúi
đầu ngẫm nghĩ. Nàng muốn cầu nguyện những gì, chồng nàng sẽ có quyền
uy, sẽ thành lãnh tụ, sẽ giàu sang, sẽ đón nàng về cùng hưởng cuộc sống
cao sang? Cầu cho chồng nàng sẽ không quên nàng? Sẽ... Thực lòng nàng
muốn gì?
Chie ngập ngừng một lát rồi se sẽ đọc cho vị sư già chép vào thớ gỗ:
- Tôi là Ando Chie... Cầu cho chồng tôi là Cường Để vượt sóng gió về đến quê nhà bình yên, sum họp với gia đình.
Vị
sư già ngẩng nhìn nàng. Ông đã viết giúp cho thiện nam tín nữ hàng ngàn
lời nguyện. Ông nhìn Ando Chie một lát như muốn hỏi điều gì, nhưng rồi
lại thôi, cúi xuống cắm cúi viết.
Khi
trở về nhà, nàng thấy Giáo sư Hashimoto đang chờ trước cổng. “Ando, có
tin mừng cho cô đây”. Ông đưa nàng tờ nhật báo Asahi. “Hoàng tử Việt
Nam đã về đến quê nhà sau 32 năm ly hương”. Chie mừng rơi nước mắt.
Chiều hôm đó nàng làm món mì Nhật và sushi cá hồi, mời ông bà Hashimoto
để tỏ lòng biết ơn.
Ông
bà về rồi, còn lại một mình Chie trong căn hộ vắng lặng. Một đoạn đời
đã chấm dứt, đoạn đời mới bắt đầu, một chặng đường dài hun hút mà nàng
sẽ phải đi một mình.
Nàng giở tờ báo Asahi, đọc lại bài viết, rồi lật dần ra những trang sau: những mục tìm nhà, tìm việc.
Cuối tháng 7, bỗng bà Hashimoto đập cửa căn hộ của Ando Chie, hốt hoảng:
- Ando, người ta vừa điện đến cho ông nhà tôi. Cô phải ra ngay cảng Yokohama!
Chie
cuống quýt, hai chân run cầm cập, lưỡi líu lại. Nhưng người phụ nữ Nhật
dường như được trời phú cho một nghị lực phi thường, nàng kiềm chế
thật nhanh cơn hoảng hốt, cầm lấy chiếc ô, chạy ra cửa.
Bà Hashimoto tốt bụng đã kịp thuê giúp nàng một chiếc xe ngựa.
Trên
cảng Yokohama về chiều, có một ông già ngồi trên chiếc ghế dài, ngẩn
ngơ nhìn quanh với đôi mắt vô hồn, mặc kệ bao nhiêu người qua lại. Chie
chạy lại gần. Sao mới có một tháng mà chồng nàng đổi thay đến thế, y
phục nhàu nát, khuôn mặt gầy tọp rám nắng, mái tóc bạc xỉn đi và bê bết
bụi.
- Ông ơi...
Chie
cầm lấy tay chồng. Bàn tay ông gầy trơ xương, nhưng vẫn là bàn tay của
ông, ông đang ở đây, bên nàng. “Ông ơi, sao ông lại về được?” Chie
hỏi, nhưng người đàn ông ngẩn ngơ nhìn mông lung, vẻ mặt sững sờ tuyệt
vọng, dường như không còn nhận ra gì chung quanh nữa. Ông chỉ không ngớt
lẩm bẩm: “Không về được! Không về được nữa! Không về nữa!”.
Với Chie, về là về Nhật Bản, với ông, về là về Việt Nam.
Hơn
một tháng Chie ra sức chăm sóc, Cường Để mới dần dần hồi tỉnh lại. Ông
kể với nàng: Tàu Hải Minh bị trục trặc bánh lái nên đã ghé Thượng Hải
một tuần. Trong khi đó, báo Asahi đã đưa tin, và mật vụ Pháp biết được
rằng chuyến tàu phải cập cảng Bangkok, đã điện cho Bộ ngoại giao Thái.
Vì quan hệ giao thương với Pháp, chính phủ Thái đã không cho Cường Để
nhập cảnh Thái Lan, buộc lòng phải theo tàu
quay về Nhật Bản.
Cường
Để không bao giờ còn trở lại như trước kia nữa. Tuyệt vọng, suy sụp,
ông đã hoàn toàn là một ông già trái tính trái nết, đau ốm triền miên.
Đôi khi, căm hận số phận, ông ném bất cứ cái gì vớ được vào vách. Chie
phải cất bộ đồ trà ông đem theo từ Việt Nam thật kỹ, mỗi sáng pha trà
xong nàng đứng chờ ông uống xong, đem cất ấm chén rồi mới dám dời mắt.
Cuối
mùa thu có hai người khách ở Việt Nam sang ghé thăm. Họ là hai chính
khách đang có thế lực, hứa sẽ tìm cách đưa Cường Để về nước.
Khách về rồi, Chie dọn tách chén trên bàn, định bưng đi. Chợt ông níu tay nàng:
- Nàng ơi, nàng có tin ta còn về nước được không?
Chie đặt khay xuống, quay lại cầm cả hai bàn tay ông, vỗ về:
- Thiếp tin.
- Ta cũng tin vậy. Nghe nói chẳng bao lâu nữa người Pháp sẽ rút khỏi Đông Dương...
Chie
lau những giọt mồ hôi đang ứa ra trên trán người đàn ông. Dạo này ông
yếu quá, chỉ một cơn xúc động cũng đủ làm mồ hôi toát ra dầm dề.
Mấy
hôm sau ông bồn chồn đến mất ngủ, lúc nào khỏe lại lật giở những thư
từ, sách vở đã cất giữ từ bốn mươi năm trước, cả bức “Thư huyết lệ của
người Việt Nam” mà ông viết khi mới ngoài ba mươi tuổi.
Ba
mươi năm đã qua, sứ mệnh cứu nước không còn nằm trong tay thế hệ ông
nữa rồi. Nhưng những bức thư cũ này sẽ mãi mãi là kỷ niệm rực rỡ nhất
của
đời ông.
- Nàng cất kỹ những giấy tờ này cho ta. Khi ta về nước, đồng bào nhất định sẽ hỏi đến.
Chie đặt chén thuốc xuống bàn rồi đỡ lấy những tờ giấy cũ vàng tên tay ông.
Bây giờ ông đã tin nàng thật sự, ông giao cho nàng những tờ giấy này, đối với ông nó còn quý hơn cả bạc vàng.
-“Uống
thuốc đi mình”. Chie nhắc. Cường Để gật đầu, không đợi Chie nài ép dỗ
dành như mọi lần, ông bưng chén thuốc đắng ngắt uống cạn.
Gương mặt đang rạng rỡ của ông bỗng nhăn nhúm lại, một cơn đau đang âm ỉ dưới sườn non chợt nhói lên.
Chie
đỡ cái bát, tay kia vỗ nhẹ lên lưng chồng như muốn xoa dịu phần nào cái
buốt nhói trong cơ thể ông. Tuần trước, bác sĩ bệnh viện Nihon Ika
Daigaku đã nói cho nàng biết, Cường Để đã mắc bệnh ung thư gan, ông chỉ
còn sống nhiều lắm là ba tháng nữa.
Chie giữ kín tin dữ không cho ai hay. Nàng biết đây là lúc nàng phải mạnh hơn bao giờ hết.
Cường
Để cố uống thuốc cho mau khỏi bệnh. Ông xem đi xem lại bức thư của mấy
người Việt vừa ghé thăm tháng tám năm ngoái, bức thư hứa sẽ tìm cách
vận động cho ông hồi hương. Mỗi lần đọc thư ông thấy khỏe hẳn lên như
vừa uống một thang thuốc bổ.
Nhưng đến đầu tháng tư, sau nhiều cơn đau hành hạ, Cường Để cũng nhận ra rằng mệnh của mình đã hết.
Ông
cố mở đôi mắt mệt mỏi, gắng nhìn thật kỹ những gì chung quanh: Khung
cửa sổ nhỏ, những chiếc áo Việt may bằng lụa Nhật treo trên vách, chiếc
chậu đồng dưới chân giường, những vật dụng thường ngày của cuộc sống
lưu vong tạm bợ, giờ phút này ông nhìn chúng với ánh mắt bịn rịn vô
cùng.
Mắt
ông dừng lại nơi khuôn mặt Chie đang nhìn xuống, vẻ thầm lặng và nhẫn
nhục đầy yêu thương. Ông quờ quạng nắm lấy tay nàng: “Mình ơi, mình có
phải là Phật Bà Quan Âm của tôi không?”
Đó
là lần đầu tiên ông nói lời tri ân với nàng sau bao nhiêu năm chung
sống. Nhưng nàng không hiểu gì cả, vì ông không biết là mình không dùng
tiếng Nhật. Như một bản năng, mấy hôm nay ông chỉ nói toàn tiếng Việt.
Chie
vẫn cúi nhìn, vẫn vẻ mặt âu yếm xót xa, nàng áp sát mình xuống thân thể
còm cõi của ông, tay nắm lấy cả hai tay ông như muốn bảo: Đừng sợ,
có thiếp đây, dù đi đến đâu ngài cũng không cô độc.
Cường Để dần thiếp đi.
Lúc ấy là năm giờ 5 phút sáng mồng 6 tháng 4 năm 1951. Một mình Ando Chie úp mặt khóc lặng lẽ trên thi thể ông.
Ngoài cửa sổ, hoa anh đào đang nở. Hôm ấy là ngày đầu của lễ hội hoa anh đào trên đất Nhật.
*
Cửa
mở ra, hai người đàn ông theo Ando Chie bước vào căn hộ. Đập vào mắt họ
là những tấm hình của Kỳ ngoại hầu Cường Để trên vách. Vị hoàng thân
trẻ măng hai mươi lăm tuổi ngày mới đến Nhật. Hội chủ hội Đông Du Phục
Quốc, sinh viên trường Đại học Waseda, hình chụp với Thủ tướng Innukai,
hình chụp với ký giả Asahi trong bữa tiệc long trọng tại khách sạn Đế
Quốc... Tất cả là những trang đời đẹp nhất
của Cường Để. Còn hình ảnh buồn thảm những ngày chờ đợi trên sân bay
Haneda, những ngày chạy loạn nghèo túng cơ cực, ngày về tang thương trên
cảng Yokohama... Những hình ảnh ấy giờ đây chỉ còn trong ký ức Chie mà
thôi.
Hai
tay bưng bình tro, Ando Chie trao di cốt Cường Để cho hai con của ông.
Nàng cúi mặt thầm nghĩ: Thế là ngài sắp về nhà, giấc mơ cả đời của ngài
giờ đây mới thành tựu. Ngài lên đường bình an, lần này thiếp không phải
gói sushi cho ngài mang đi nữa rồi.
Người
con trai cả của Cường Để đỡ lấy bình tro di cốt của cha. Mặt ông đầy
nước mắt. Ông ngạc nhiên thấy người đàn bà Nhật này vẫn bình thản, nét
mặt trang nghiêm dịu dàng chỉ hơi phảng phất buồn. Nhưng người con trai
thứ hai đứng cách đó vài bước thấy rất rõ đôi bàn tay của Chie sau khi
trao xong bình tro. Đôi bàn tay ấy bấu chặt vào nhau, những móng tay
quắp vào da thịt, rồi chúng run rẩy bấu víu
lấy đôi tay áo kimono, và đến lượt thớ vải giằng co như sắp bị xé rách
ra.
Khi
hai người đàn ông đi rồi, Chie khép cửa, quỳ xuống sàn. Nàng lấy trong
ống tay áo ra một mẩu xương và một nhúm tro nhỏ. Chie đã giữ lại cho
mình một phần thân thể của chồng.
Nàng
biết mình không làm trái với ý nguyện ông. Dù chẳng hiểu ông nói gì khi
sắp mất nhưng nhìn vào mắt ông nàng biết, ông rất muốn ở lại với nàng.
Hình như vào giờ phút ấy ông nhận ra mình sắp đi vào một cõi xa thăm
thẳm, ở nơi ấy ông sẽ gọi cả trần gian này là quê nhà. Và ở quê nhà đó,
một trong những gì giản dị và thân thương nhất chính là Chie...
Ando
Chie mất bốn mươi năm sau, trước khi mất bà để lại di chúc muốn được
chôn cùng với nắm tro tàn của Kỳ ngoại hầu Cường Để. Nhưng cho đến nay
lọ hài cốt của bà vẫn còn trong phòng mộ tập thể của nghĩa trang
Zoshigaya, nơi có những cây tùng xanh biếc và tiếng quạ kêu man mác buồn
trong những buổi sáng mùa xuân...
Trần Thùy Mai