HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO TÍM
* Thi sĩ Kiên Giang : Sáng tác một bài thơ rất quen thuộc với người Việt Nam và đã được phổ nhạc; gần đây nhất là bài Chuyện Tình Hoa Trắng ... Gọi là một bài thơ nhưng thật sự có đến hai bài Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím hay đúng hơn, một bài thơ với hai đoạn kết hoàn toàn trái ngược nhau. Cả hai bài đều hiện hữu song song và cùng nổi tiếng, tuy ít có người để ý đến sự việc bất ngờ này. Ngày nay, xem phim trong các dĩa DVD ta thường thấy có thêm phần “Alternate Ending”, một kết cục khác của phim mà vì lý do nào đó nhà đạo diễn đã phải bỏ đi, không sử dụng khi đưa cuốn phim ra phát hành chính thức.
Nghi vấn chính của bài viết là tại sao ông Kiên Giang đã làm như vậy và trên một khía cạnh, đã đi trước các đạo diễn Hollywood bao nhiêu năm trời. Nhiều người vẫn thắc mắc và gần đây, một nhóm bạn trong chương trình Cây Mùa Xuân đã gặp gỡ và ủy lạo các nghệ sĩ cổ nhạc nghèo khó... Trong chương trình đó, một người trong nhóm ở Việt Nam đã gặp ông Kiên Giang hỏi về nghi vấn này và được bác cho biết như sau:
... Hồi đó, có một anh chàng học sinh nọ, tên Trinh, quê ở tận miền Rạch Giá lên trọ học tại Sài Gòn, học cùng lớp với cô nữ sinh tên là Nguyễn Thị Thúy Nhiều, người ở Sóc Trăng. Thuở đó, chàng là học sinh khá giỏi về Văn nhưng lại yếu về môn Toán, tình bạn của họ rất trong sáng, có xen lẫn tình yêu thơ mộng, những khi chàng bí Toán thì hay nhìn sang để “copier” nàng. Lúc là sinh viên, chàng là cây bút của một tờ báo, còn nàng, tuy gia đình có hoàn cảnh khó khăn nhưng không thể làm gì thêm. Thế là chàng dùng tiền nhuận bút chia sẻ cho nàng. Tình yêu, tình bạn thơ mộng đó kéo dài suốt quãng đời sinh viên của hai người tại đất Sài Gòn. Hai người còn có lời hứa sống chết có nhau.
Sau khi chia tay tại Sài Gòn, chàng ở lại làm nhà văn, nhà báo, soạn giả... Nàng về quê đi dạy học và đợi chờ ngày sum họp. Thời gian thấm thoát trôi qua, hoàn cảnh đổi thay nên chàng đã thất hứa, đi lấy vợ... Được tin, nàng buồn khổ vô cùng và sau đó rất lâu nàng mới chịu lấy chồng. Nghịch cảnh chăng (?) hay vì nàng quyết định chọn mà chồng của nàng cũng tên Trinh.
Một thời gian sau, anh chàng Trinh thất hứa, nay là trưởng toán của một đoàn nghệ thuật lớn, lưu diễn và gặp lại nàng. Chàng có đến thăm cô Thúy Nhiều và đã viết bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím thứ nhất để gọi là “tạ lỗi” vì đã thất hứa trong tình yêu. Trong bài này, người con gái mất đi để lại trong lòng người trai một nỗi buồn khôn nguôi như lòng của anh Trinh sinh viên với mối tình cũ. Ngoài ra chàng còn gởi hai vé hát mời vợ chồng cô Thúy Nhiều đi xem. Tuy nhiên, người chồng của cô rất ghen nên hai người đã không đến xem buổi trình diễn của đoàn hát của chàng sinh viên xưa.
Vì hận lòng hay hận đời, Trinh đã sửa lại đoạn kết bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím. Lần này Trinh cho chàng trai trong bài thơ bị chết và người con gái suốt đời ôm mối hận tình, khóc người yêu cũ... để trả thù việc vợ chồng cô đã từ chối lời mời xem hát của anh. Đến đây chắc các bạn cũng đã biết anh chàng Trinh sinh viên kia chính là ông Kiên Giang (tên thật là Trương Khương Trinh, bút hiệu khác Hà Huy Hà, sinh ngày 17-2-1929 tại Rạch Giá).
Còn cô Nguyễn Thị Thúy Nhiều đã mất. Những người con của cô đều rất thành danh trong nghề nghiệp và cuộc sống, có người là giáo sư. Riêng về người chồng của cô Thúy Nhiều, ông này là người rất ghen nhưng lại có vợ lẽ. Ông vẫn còn sống với người vợ sau. Thời gian sau này, lúc cô Thúy Nhiều còn sống, ông chồng vì ân hận mình phụ bạc vợ, đã có đến nhà thờ đi bằng đầu gối để xin lỗi vợ mình.
Một Bài Thơ Hai đoạn Kết
Bài 1
HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO TÍM
(Tâm tình của người trai ngoại đạo đối với cô gái có đạo – Bến Tre, 14-11-1957)
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa cháy không gian
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương, nóc giáo đường
Từ ngày binh lửa cháy không gian
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương, nóc giáo đường
Mười năm trước, em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh
Trường anh ngó mặt giáo đường
Gác chuông thương nhớ lầu chuông
U buồn thay! Chuông nhạc đạo
Rộn rã thay! Chuông nhà trường
Gác chuông thương nhớ lầu chuông
U buồn thay! Chuông nhạc đạo
Rộn rã thay! Chuông nhà trường
Lần lữa anh ghiền nghe tiếng chuông
Làm thơ sầu mộng dệt tình thương
Để nghe khe khẻ lời em nguyện
Thơ thẩn chờ em trước thánh đường
Làm thơ sầu mộng dệt tình thương
Để nghe khe khẻ lời em nguyện
Thơ thẩn chờ em trước thánh đường
Mỗi lần tan lễ, chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ, em cầu kinh nho nhnhỏ
Thẹn thuồng, anh đứng lại không đi
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ, em cầu kinh nho nhnhỏ
Thẹn thuồng, anh đứng lại không đi
Sau mười năm lẻ, anh thôi học
Nức nở chuông trường buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo
Tiễn nàng áo tím bước vu quy
Nức nở chuông trường buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo
Tiễn nàng áo tím bước vu quy
Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ
Chiếc áo tang liệm một khối sầu
Chiếc áo tang liệm một khối sầu
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Thôi còn đâu nữa tuổi băng trinh
Em lên xe cưới về quê chồng
Dù cách đò ngang cách mấy sông
Anh vẫn yêu người em áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng
Dù cách đò ngang cách mấy sông
Anh vẫn yêu người em áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng
Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ màu áo tím, người yêu cũ
Giữ cả lầu chuông, nóc giáo đường
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ màu áo tím, người yêu cũ
Giữ cả lầu chuông, nóc giáo đường
Mặc dù em chẳng còn xem lễ
Ở giáo đường u tịch chốn xưa
Anh vẫn giữ lầu chuông gác thánh
Nghe chuông truy niệm mối tình thơ
Ở giáo đường u tịch chốn xưa
Anh vẫn giữ lầu chuông gác thánh
Nghe chuông truy niệm mối tình thơ
Màu gạch nhà thờ còn đỏ thắm
Như tình nồng thắm thuở ban đầu
Nhưng rồi sau chuyến vu quy ấy
Áo tím nàng thơ đã nhạt màu
Như tình nồng thắm thuở ban đầu
Nhưng rồi sau chuyến vu quy ấy
Áo tím nàng thơ đã nhạt màu
Ba năm sau chiếc xe hoa cũ
Chở áo tím về trong áo quan
Chuông đạo ngân vang hồi vĩnh biệt
Khi anh ngồi kết vòng hoa tang
Chở áo tím về trong áo quan
Chuông đạo ngân vang hồi vĩnh biệt
Khi anh ngồi kết vòng hoa tang
Anh kết vòng hoa màu trắng lạnh
Từng cài trên áo tím ngây thơ
Hôm nay vẫn đóa hoa màu trắng
Anh kết tình tang gởi xuống mồ
Từng cài trên áo tím ngây thơ
Hôm nay vẫn đóa hoa màu trắng
Anh kết tình tang gởi xuống mồ
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Không còn đứng nép ở lầu chuông
Nhưng khi chuông đổ anh liên tưởng
Người cũ cầu kinh giữa giáo đường
Không còn đứng nép ở lầu chuông
Nhưng khi chuông đổ anh liên tưởng
Người cũ cầu kinh giữa giáo đường
Lạy Chúa! Con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ngự trên trời
Nhưng tin có Chúa ngự trên trời
Trong lòng con, giữa màu hoa trắng
Cứu rỗi linh hồn con Chúa ơi!!!
Bài 2:
HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO TÍM
Gia Định, 28-05-1958
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa cháy quê hương
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương, nóc giáo đường
Từ ngày binh lửa cháy quê hương
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương, nóc giáo đường
Mười năm trước, em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh
Quen biết nhau qua tình lối xóm
Cổng trường đối diện ngó lầu chuông
Mỗi lần Chúa Nhật em xem lễ
Anh học bài ôn trước cổng trường
Cổng trường đối diện ngó lầu chuông
Mỗi lần Chúa Nhật em xem lễ
Anh học bài ôn trước cổng trường
Thuở ấy anh hiền và nhát quá
Nép mình bên gác thánh lầu chuông
Để nghe khe khẽ lời em nguyện
Thơ tthẩn chờ em trước thánh đường
Nép mình bên gác thánh lầu chuông
Để nghe khe khẽ lời em nguyện
Thơ tthẩn chờ em trước thánh đường
Mỗi lần tan lễ, chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ, em cầu kinh nho nhỏ
Thẹn thuồng, anh đứng lại không đi
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ, em cầu kinh nho nhỏ
Thẹn thuồng, anh đứng lại không đi
***
Sau mười năm lẻ, anh thôi học
Nức nở chuông trường buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo
Tiễn nàng áo tím bước vu quy
Nức nở chuông trường buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo
Tiễn nàng áo tím bước vu quy
Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ
Chiếc áo tang liệm một khối sầu
Chiếc áo tang liệm một khối sầu
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Giữ làm chi kỷ vật ban đầu
Em lên xe cưới về quê chồng
Dù cách đò ngang cách mấy sông
Vẫn nhớ bóng vang thời áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng
Dù cách đò ngang cách mấy sông
Vẫn nhớ bóng vang thời áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng
***
Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ tà áo tím màu hoa trắng
Giữ cả trường xưa nóc giáo đường
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ tà áo tím màu hoa trắng
Giữ cả trường xưa nóc giáo đường
Giặc chiếm lầu chuông xây gác súng
Súng gầm rung đổ gạch nhà thờ
Anh gom gạch đổ xây tường lũy
Chiếm lại lầu chuông giết kẻ thù
Súng gầm rung đổ gạch nhà thờ
Anh gom gạch đổ xây tường lũy
Chiếm lại lầu chuông giết kẻ thù
Nhưng rồi người bạn cùng trang lứa
Đã chết hiên ngang dưới bóng cờ
Chuông đổ ban chiều, em nức nở
Tiễn anh ra khỏi cổng nhà thờ
Đã chết hiên ngang dưới bóng cờ
Chuông đổ ban chiều, em nức nở
Tiễn anh ra khỏi cổng nhà thờ
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Mà cài trên nắp cỗ quan tài
Điểm tô công trận bằng hoa trắng
Hoa tuổi học trò mãi thắm tươi
Điểm tô công trận bằng hoa trắng
Hoa tuổi học trò mãi thắm tươi
***
Xe tang đã khuất nẻo đời
Chuông nhà thờ khóc… tiễn người ngàn thu
Chuông nhà thờ khóc… tiễn người ngàn thu
Từ đây, tóc rũ khăn sô
Em cài hoa trắng trên mồ người xưa!!!
Em cài hoa trắng trên mồ người xưa!!!
Nhà thơ Hà Huy Hà ( Kiên Giang )
Từ thập niên 1960 thế kỷ trước, khi chưa có truyền hình chỉ có Đài phát thanh, thì mọi người không ai không nghe qua nhạc phẩm “Hoa trắng thôi cài lên áo tím” được hát đi hát lại nhiều lần, nhạc phẩm này do nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ nhạc từ bài thơ mang cùng tên của thi sĩ Kiên Giang – Hà Huy Hà, trưởng ban thi ca Mây Tần lúc bấy giờ. Mọi người nghe xong là thuộc, vì nhạc phẩm dễ hát và dễ nhớ. Chính điều này bài thơ trở nên bất hủ và không chỉ vang bóng một thời mà sẽ mãi mãi sống trong lòng mọi người.
Tiểu sử về thi sĩ Kiên Giang
Kiên Giang Hà Huy Hà tên thật là Trương Khương Trinh, sinh 17/02/1927 tại làng Đông Thái, huyện An Biên, Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, là con thứ trong một gia đình gồm năm anh em; vì thế ông lấy tên quê hương đặt thành bút hiệu. Ông cũng là đồng hương của nhà văn “đi bộ” Sơn Nam.
Tuổi thơ của nhà thơ Kiên Giang trải qua những nhọc nhằn từ vùng U Minh Thượng, nơi cha cày ruộng thuê, mẹ gie gạo (giã ra gạo sàn trắng) để có tiền đóng học phí cho thầy. Đến năm 1948, ông đi theo tiếng gọi non sông, rồi làm thơ ở báo “Tiếng súng kháng địch” thuộc Chiến khu 9, miền Tây U Minh. Thời đó ông đã làm thơ về đề tài tuổi thơ, quê hương, như các bài : Khói trắng, Xe trâu, Sàn gạo…
Năm 1943, nhà thơ Kiên Giang theo học trường tư thục Lê Bá Cang ở Sài Gòn. Năm 1944, đến ở tại Cần Thơ đi học trường tư thục Nam Hưng, để rồi có một mối tình học sinh chớm nở, nhưng thời cuộc đã xui ông đi theo kháng chiến. Nên vào năm 1955 cũng vì duyên kiếp ông đã cưới vợ ngay trong chiến khu. Cho nên sau khi hay tin ông đã lập gia đình thì người nữ sinh ấy cũng lên xe hoa.
Từ đó bài thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” ra đời với hình ảnh người con gái mang tà áo tím thướt tha cùng nét chữ bay bướm đã khiến ông thương thầm nhớ trộm : “Hoa trắng thôi cài trên áo tím / Từ ngày binh lửa ngập quê hương / Khói hôm che khuất chân trời cũ / Che cả người yêu, nóc giáo đường…”. Bài thơ sau này được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ thành ca khúc rất phổ biến. Nay “người con gái ấy” hiện đã an nghỉ nghìn thu tại đất Tây Đô, lâu lâu có dịp nhà thơ Kiên Giang lại ghé về thắp một nén nhang để làm ấm lòng người quá cố thay cho lời tạ lỗi.
Cũng từ năm 1955 nhà thơ soạn giả Kiên Giang Hà Huy Hà xuất hiện nhiều trên văn đàn Sài Gòn. Sau làm thơ, ông soạn tuồng cải lương và viết báo. Đến nay ông đang sống cô độc trong tuổi già tại Hội Ái Hữu Nghệ Sĩ Sân Khấu nằm trên đường Cô Bắc, trước rạp hát cải lương Hưng Đạo trên đường Trần Hưng Đạo, Q1, Sài Gòn.
Như đã nói ngoài làm thơ, nhà thơ Kiên Giang còn có nghệ danh là Hà Huy Hà. Có lần ông tâm sự : “Học hết lớp 12 tôi tham gia kháng chiến chống Pháp 9 năm, làm biên tập viên, phóng viên cho báo “Tiếng súng kháng địch” ở chiến khu 9. Năm 1955, tôi về Sài Gòn viết báo cho các tờ : Dân Chủ Mới, Tiếng Chuông, Dân Ta, Dân Tiến… Kiên Giang là bút danh khi tôi làm thơ, còn viết báo, soạn tuồng tôi lấy tên Hà Huy Hà. Bút danh này khiến mật thám thời đó lầm tưởng tôi có họ hàng với Hà Huy Tập, Hà Huy Giáp những người làm chính trị ở miền Bắc, nên chúng đã bắt tôi. Sau khi nghe giọng nói Nam Bộ của tôi, chúng đã thả tôi ra”.
Còn làm soạn giả cải lương, Kiên Giang Hà Huy Hà rất nổi tiếng cùng thời với Năm Châu, Viễn Châu, Hà Triều, Hoa Phượng, Quy Sắc… đến nhà thơ Nguyễn Bính khi vào Nam từng đến nhà ông tá túc nhiều ngày. Các tác phẩm cải lương của soạn giả Hà Huy Hà có thể kể đến “Áo cưới trước cổng chùa”, “Người vợ không bao giờ cưới” là đỉnh điểm cho sự thành danh của ông, trong đó vở cải lương “Người vợ không bao giờ cưới” đã giúp cho cố nữ nghệ sĩ Thanh Nga đoạt giải thưởng Thanh Tâm “nữ nghệ sĩ cải lương xuất sắc nhất” do nhật báo “Tiếng Dội” của nhà báo Trần Tấn Quốc làm chủ nhiệm tổ chức; Thanh Nga cũng từ đó trở thành một ngôi sao trong giới nghệ sĩ cải lương.
Trước năm 1975, nhà thơ soạn giả Kiên Giang Hà Huy Hà còn phụ trách ban thi văn Mây Tần trên Đài phát thanh Sài Gòn, làm ký giả kịch trường cho nhiều tờ báo lớn ở Sài Gòn như nhật báo Tiếng Chuông, Tiếng Dội, Lập Trường, Điện Tín, Tia Sáng… Ông cũng từng tham gia phong trào “Ký giả đi ăn mày” ...
Nói về thơ của nhà thơ Kiên Giang có rất nhiều, những thi tập đã xuất bản có Hoa trắng thôi cài trên áo tím (1962), Lúa sạ miền Nam (1970), Quê hương thơ ấu…
Còn về soạn tuồng cải lương với tên Hà Huy Hà, ông có những tuồng như sau : Người đẹp bán tơ (1956), Con đò Thủ Thiêm (1957), Người vợ không bao giờ cưới (1958 cùng với Phúc Nguyên), Ngưu Lang Chức Nữ, Sơn nữ Phà Ca, Áo cưới trước cổng chùa, Phấn lá men rừng, Từ trường học đến trường làng, Dòng nước ngược, Chia đều hạnh phúc, Trương Chi Mỵ Nương, Mây chiều xuyên nguyệt thôn, Sương phủ nửa chừng xuân, Chén cơm sông núi, Hồi trống trường làng, Lưu Bình Dương Lễ.
Và viết tân cổ giao duyên, nhà thơ soạn giả Kiên Giang Hà Huy Hà có những bài nổi bậc như : Trái gùi Bến Cát, Đội gạo đường xa, Tim đá mạ vàng, Ngồi trâu thổi sáo, Ánh đèn soi ếch, Người đẹp bán tơ, Hương cao quê ngoại, Trái tim cò trắng, Vắt sữa nai nuôi mẹ, Hương sắc gái Cà Mau, Lập quán kén chồng, Ni cô và lão ăn mày, Khói lò gạch, Cô gái miền Tây…
Nói về thơ Kiên Giang
Vì nhà thơ Kiên Giang có lúc từng là anh em kết nghĩa, là bạn thơ với thi sĩ Nguyễn Bính, nên nhiều người nhận xét thơ ông đã ảnh hưởng thơ của Nguyễn Bính khá nhiều. Nhưng nhiều người cho rằng cái chất “rặt ròng” Nam Bộ trong thơ Kiên Giang là đồ gia bảo riêng của tác giả, không thể ảnh hưởng phong trào thơ “áo bào gốc liễu” như Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân được. Ta hãy cảm nhận ít vần thơ sau đây của nhà thơ Kiên Giang để thấy chất “rặt ròng” Nam Bộ trong thơ của ông :
Từ khi cô giáo tập em đồ
Không kê giấy chặm em vô ý
Để dấu tay lem vở học trò (Đồng xu giấy chặm)
Phạt anh ngâm nước vô lu
Bẻ tàu chuối hột che dù cho em (Ngựa trúc)
Lời lẽ mộc mạc Nam Bộ đến thế, bây giờ hiếm hoi gặp lại cái chất đó trong thơ của các thi sĩ miền Nam. Riêng nhà văn Sơn Nam khi còn sống đã nói về nhà thơ Kiên Giang như sau :
- “Kiên Giang là một thi sĩ thành công, một soạn giả đã đưa thi ca vào sân khấu, để lại cho đời những vở tuồng mang đậm chất thơ như Áo cưới trước cổng chùa, Người đẹp bán tơ, Ngưu Lang Chức Nữ, Sơn nữ Phà Ca… Còn trong thơ ca, Kiên Giang đã viết những câu thơ mà nhiều nhà nghiên cứu cứ ngỡ là ca dao : “Ong bầu vờn đọt mù u / Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn”. Thơ Kiên Giang cũng như thơ Nguyễn Bính có nét chung bình dị, mộc mạc, nhưng một bên là chân quê Nam Bộ, còn một bên là chân quê Bắc Bộ”.
Ngoài ra nhà văn Sơn Nam còn bình xét thơ và tuồng của Kiên Giang Hà Huy Hà như sau : “có người nói ông làm thơ dễ dãi đến mức có lẽ không đọc lại bản thảo (?). Cũng có thể như vậy hoặc không như vậy, nhưng nếu dễ dãi mà đã để lại cho đời những bài thơ như “Hoa trắng thôi cài trên áo tím”, “Khói trắng” hay “Tiền và lá”… – những bài thơ sống dai dẳng trong lòng người dân miền Nam suốt một thời thật nên trân trọng”.
Lịch sử bài thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím "
“Hoa trắng thôi cài trên áo tím” có lẽ là bài thơ nổi tiếng nhất của thi sĩ Kiên Giang, đã được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ nhạc và được nhiều ca sĩ thể hiện rất thành công. Theo nhà thơ Kiên Giang tâm sự :
- “Đây là tâm tình người trai ngoại đạo đối với cô gái có đạo. Mối tình học trò tinh khiết, ngây thơ, không nhuốm bụi trần. Năm 1944, tôi ở Cần Thơ học trường tư thục Nam Hưng, dốt toán nhưng giỏi luận chuyên làm bài giùm cho bạn cùng lớp, trong đó có NH – cô bạn dễ thương thường mặc áo bà ba trắng, quần đen, mang guốc mộc. Có những buổi tan học lẽo đẽo đi theo sau NH. đến tận nhà cô ở xóm nhà thờ. Cách mạng nổ ra, không có tiền đi đò về quê, NH. biết ý gửi cho, rồi tôi đi kháng chiến, gặp người quen trong đội quân nhạc nhắn : ‘”Con Tám NH. vẫn chờ mày”. Năm 1955 tôi ghé ngang Cần Thơ, xin phép má của NH. để tâm tình suốt đêm với NH. bên ánh đèn dầu. Sau đó tôi nghe tin NH. lấy chồng có con đầu lòng đặt tên là tên ghép lại của tôi và NH. vì thế chồng cô biết rất ghen tức. Chính vì lý do nầy tôi đổi bốn câu kết bài thơ này, giống như tống tiễn mối tình học trò trinh trắng. Câu kết trước là :
Xe tang đã khuất nẻo đời
Chuông nhà thờ khóc tiễn người ngàn thu
Từ nay tóc rũ khăn sô
Em cài hoa tím trên mồ người xưa
Thành cái kết khác :
Lạy Chúa ! Con là người ngoại đạo
Nhưng tin có chúa ở trên trời
Trong lòng con, giữa màu hoa trắng
Cứu rỗi linh hồn con Chúa ơi !
NHÀ THƠ KIÊN GIANG ĐÃ VĨNH VIỄN RA ĐI ...
Nhà Thơ Kiên Giang - Hà Huy Hà ( 1927 - 2014 )
Sau một cơn đột quỵ
và lâm vào tình trạng hôn mê sâu, nhà thơ - soạn giả cải lương Kiên
Giang - Hà Huy Hà đã từ trần vào lúc 6h30 ngày 31.10.2014 tại Bệnh viện
Nguyễn Tri Phương (quận 5, TP.HCM), thọ 87 tuổi.
Nhà thơ Kiên Giang- Hà Huy Hà
Sau ngày đất nước
thống nhất, nhà thơ Kiên Giang tiếp tục sống và sáng tác tại TP.HCM.
Thời gian gần đây, ông về an dưỡng cuối đời ở thành phố Long Xuyên,
tỉnh An Giang. Khi đọc báo thấy tin một bé sơ sinh bị bỏ rơi ngoài
đường, ông đã gom chút tiền hưu đón xe từ Long Xuyên lên TP.HCM để giúp
đỡ em bé, nhưng vừa tới nơi, chưa kịp thực hiện ý định thì ông bị đột
quỵ vào chiều 28.10.2014 . Ông được người nhà của cố nhà báo Phong Vân
đưa vào cấp cứu tại Bệnh viện quận 8, sau đó chuyển sang Bệnh viện
Nguyễn Tri Phương ở quận 5, nhưng vì tuổi cao sức yếu , ông đã qua đời l úc 6giờ30 ngày 31.10.2014 .
Linh cữu nhà thơ Kiên
Giang sẽ được quàn tại Nhà Tang lễ TP.HCM (số 25 Lê Quý Đôn, quận 3).
Lễ viếng bắt đầu từ 8h ngày 01.11.2014 .
Lễ truy điệu tiến
hành lúc 7h ngày 3.11, sau đó đoàn xe tang sẽ đến dừng ở trụ sở Ban Ái
hữu nghệ sĩ TP.HCM (133 Cô Bắc, quận 1) .
Mà ông từng nhiều năm gắn bó, rồi tiếp tục đưa linh cửu ông đến nơi an nghỉ cuối cùng , tại Nghĩa trang Hoa viên Chánh Phú Hòa (huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương)
Nơi có những người bạn của ông nằm trước như:
nhà văn Sơn Nam, nhà thơ Chim Trắng...
Hội Nhà
văn TP.HCM và Ban biên tập NVTPHCM xin chia buồn sâu sắc với gia đình,
người thân, bạn bè đồng nghiệp và những độc giả, khán giả mến mộ nhà
thơ, soạn giả Kiên Giang - Hà Huy Hà.