Thursday 16 July 2020

ÁO ĐỎ CHIỀU XUÂN - Nguyễn Tư



ÁO ĐỎ CHIỀU XUÂN

   
*"Em đi áo đỏ lên màu mắt" 
(Quang Dũng) 

Valentine:
ngày yêu nhau! 

Em đi,
áo đỏ lên màu rưng-rưng… 

Tôi - chim mỏi cánh,
 xa rừng, 

Mang trăm ngàn nỗi đau,
chừng không vơi! 

Bấy lâu,
tôi sống im lời … 

Vẫn đi bên cạnh cuộc đời,
 dửng-dưng..! 

Thấy em cười,
 nói,
 tôi mừng … 

Không ngờ đâu,
 đó,

 mùa Xuân đã tàn! 
Tiếng "buồn",
loáng-thoáng em than, 

Tôi nghe như,
có muôn vàn xót-xa…

*Nguyễn-Tư     


          

EM VỀ HƯƠNG ĐƯA ( Nguyễn Tư )


EM VỀ HƯƠNG ĐƯA 

Lòng anh thì đã bạc,
trước khi tóc hãy còn xanh!

Em về,
hoa nắng trên cành lao-xao…

 Anh dang tay,
đón em vào, 

Nghe mùi hương,
 ấm,
nghẹn-ngào qua đây… 

Buổi chiều mưa bay,

Buồn từng sợi,
nhỏ,
lưa-thưa hiên ngoài…

Nhớ người một thủa,
chưa phai!

Vẫn còn thấp-thoáng,
dáng ai trên đồi?

Lòng thì đã bạc,
lâu rồi!?

Tóc xanh em,
đã một thời,
gió bay…

*Nguyễn-Tư

        

“ANZAC DAY”: NGÀY CỦA LÍNH - Nguyễn Tư


“ANZAC DAY”: NGÀY CỦA LÍNH



Cứ đến ngày 25 tháng 4 thì trên khắp nẻo đường phố Sydney thấy vắng tanh vì người ta nghỉ Lễ, ngoài những ông cụ mặc đồ vest, ngực đeo đầy huy chương và nhánh cây khuynh diệp nhỏ, lọng cọng ra bến Bus hay nhà ga để đáp tàu về City dự buổi diễn hành dành cho họ hàng năm….

Hôm nay trời hơi sương. Lạnh. Và, âm u như chia xẻ với nỗi đau của cuộc bại trận Gallipoli tại bờ biển Thổ-nhĩ-kỳ của liên quân Úc - Tân Tây lan cách nay 80 năm, cũng là niềm thổn thức 20 năm của những người miền Nam mất nước trong cùng Tháng Tư Đen ác nghiệt này.

Mấy ngày trước, trên TV liên tục chiếu những chương trình có liên quan đến biến cố lịch sử đau thương dai dẳng này đã khiến hàng chục ngàn binh sĩ Úc và Tân Tây lan bỏ mình trên vùng đất xa xôi đầy bất lợi ấy, mà có một số sử gia Úc ngày nay xem như là điều ô nhục, khi họ coi sự hy sinh đó chỉ là mặt trái của một cuộc tính toán vô nhân đạo từ "Mẫu Quốc" Anh, muốn kẻ khác chết thay cho mình trong cuộc chiến tranh riêng của họ ở châu Âu cũng như tại Singapore trong thời kỳ Đệ nhị Thế chiến với quân Nhật.

Trong phim thấy có phỏng vấn những người còn sống sót, dĩ nhiên nay họ đã quá già. Họ là những người lính lúc ra đi chỉ mới 17, 18 đến 22 tuổi, đầy nhựa sống từ cấp Binh nhì lên tới Trung úy...Có người vừa nói vừa khóc như niềm đau tủi, có người vừa nói vừa cười một cách đắng cay và cho đó là một cuộc"phiêu lưu"(adventure) mà giới trẻ Úc ngày nay thường thắc mắc:"Tại sao chúng ta mừng lễ một cuộc chiến tranh, một cuộc bại trận?" (why we celebrate a war , a defeat?) như lời người thuyết minh đã nhắc! Về phía những người lính Thổ nhĩ Kỳ, họ cũng già khú đế như vậy, nhưng không tỏ vẻ đau đớn gì vì họ là những người thắng trận. Họ nói rằng họ chỉ được lịnh đào chiến hào trên bờ biển vàchờ quân đội Anh đến mà thôi, chứ không biết có quân Úc và Tân tây Lan...

Theo quan điểm quân sự, thì địa thế bờ biển gọi là "ANZAC COVE" trông rất nguy hiểm, rất bất lợi cho quân đổ bộ, vì biển khá sâu (nhìn thấy nhiều tàu lớn cập gần bờ) và độ dốc quá cao. Bên trên lại đầy lô-cốt 2 tầng xây theo hình cánh cung (có nghĩa là xạ trường rất rộng) có trí súng đại liên, và chằng chịt những chiến hào...Những điều này chứng tỏ sự cụ bị rất sẵn sàng, rất kiên cốvà quân Thổ tiên đóan trước một cuộc đổ bộ chắc chắn sẽ có, là một điểm tối kỵ trong binh pháp về phía Liên quân.


Cách đổ bộ như thế này nắm chắc phần thua dù có binh hùng tướng mạnh, tàu lớn lại tập trung vào một tiêu điểm có mật độ rất đậm, nằm trong tầm pháo nên lãnh đủ pháo binh địch (thấy nguyên một chiếc tàu to bị đạn pháo lật úp và hàng trăm lính bơi lổn ngổn, còn đánh đá gì nữa!?). Tàu lớn phải ở ngoài xa để bảo vệ chủ lực và hỏa lực yểm trợ cho quân đổ bộ, chỉ vào bằng xà-lang, nếu có bị pháo cũng ít thiệt hại. Với vị trí nguy hiểm như vậy, trước tiên phải cho pháo binh hay không quân dập vào bờ trước, cày nát hết các công sự, áp đảo tinh thần địch rồi mới đổ quân lên, từng bước, từng bước, lên bước nào đào công sự bước đó...còn chạy vào ào ạt như vịt thì chỉ có chết như rạ là phải...

Mọi năm tôi ở gần City nên lè-phè, tà-tà đến đó, nay ở rất xa, lại cách ga nên phải dậy từ sáng sớm, lội bộ 5 cây số mới đến Ga Liverpool, vì Bus hôm nay nghỉ lễ. Từ đây về City mất gần 1.h30 phút. Trên xe đông nghẹt những người cựu chiến binh già, có người đi cà nhắc chắc do bịnh già, có người phải chống một gậy,có khi 2 gậy, có người đi xe lăn do thân nhân đẩy...Hẳn đây là những người lính từ thời đệ I hay đệ II thế chiến. Còn những người trẻ trung hơn thì mạnh khoẻ vì họ thuộc thế hệ của tôi, họ là những người tham chiến tại Việt nam. Họ thường đội béret của binh chủng mình (Thiết giáp màu đen, Đỏ là Dù, xanh là TQLC, nâu là BĐQ). Đặc biệt những người này trên ngực đều có đeo cái huy chương mà cuốn là lá cờ vàng 3 sọc đỏ, khiến chúng ta rất cảm động và cảm thấy rất gần gũi với họ, nhất là trước đây tụi tôi vẫn thường chiến đấu chung bên họ với lòng ngưỡng mộ là người lính Úc chả bao giờ đội nón sắt trong lúc lâm trận như các binh sĩ các nước khác, mà chỉ đội nón "bord" (còn gọi là "nón rừng" loại nón bờ rộng bằng vải để đi rừng).Họ rất niềm nỡ khi gặp người Việtnam...

Tôi xuống ga Wynyard để đến Đài Tử sĩ cho gần, thay vì ga Town Hall như mọi năm. Sáng đi bụng đói vì quá sớm, nên tôi mua một ly cà-phê nơi quày hàng Ga, thấy lố nhố những người lính này. Tôi ngồi ngay vào một bàn có người lính Úc "Vietnam Veterans" và nói "Hi!". Người lính chào lại hỏi, mày có phải người VNkhông? Tôi nói phải, cũng là cựu binh như bạn. Người cựu binh đưa tay bắt với nụ cười tươi, khai anh là "Private"(Binh nhì) rồi hỏi tôi cấp bực gì, tay chỉ vào cái huy chương của anh, có lá cờ vàng với niềm hãnh diện. Tôi nói cấp bực tôi là "Lieutenant" vừa đứng lên đưa tay chào lá cờ cùng cái huy chương trên ngực áo anh ấy theo đúng quân cách với đôi mắt rưng rưng...Người lính cũng chào lại tôi theo kiểu nhà binh rất tử tế dù chúng tôi bay giờ đều là dân sự. Tình chiến hữu dấy lên trong lòng tôi lúc đó, nhưng tôi phải vội đi, kiếu người lính đó và nói là tôi bận đi viết một bàitường trình về buổi diễn hành cho một tờ báo ở Melbourne. Người cựu binh Úc cũng rưng rưng tiễn tôi ra khỏi Ga với cái ngoắt tay thật đầm ấm. Chỉ có những người trong QĐ, cùng chiến đấu bên nhau trong một chiến hào mới có những tình cảm riêng tư này, nhất là trong hoàn cảnh một người đã phải lưu vong vì mất nước mà cả hai từng hết sức bảo vệ vẫn không xong vì những dàn xếp bẩn thỉu tại bàn Hội nghị mà 2 người cựu binh này không hề được hỏi ý kiến!



Tôi ra đứng trên một bệ cao của một cao ốc để nhìn vào Đài Tử sĩ có 2 tượng lính bằng đồng, một Bộ binh, một Hải quân đứng thế nghiêm cầm súng đâu lưng vào nhau giữa những vòng hoa tưởng niệm đủ màu của các đoàn thể. Cuộc diễn hành bắt đầu. Những nhịp trống của các ban Quân nhạc vang lên trầm hùng. Tôi thấy các trưởng đơn vị đi đầu hô to quay vào trái hoặc phải để chàoĐài Tử sĩ nếu đi qua phía nào của Đài. Chỉ có người hô mới chào tay (chào theo kiểu Pháp, lật ngửa bàn tay trông không đẹp bằng lối chào Mỹ và VNCH bàn tay úp xéo xuống trông mạnh và hùng hơn) các cựu binh đều quay mặt vào Đài tử sĩ, tay úp vào ngực để tưởng niệm các đồng đội của mình đã hy sinh.

Năm nay, đặc biệt trên đường diễn hành đầy phân ngưạ, bốc lên mùi hôi rất khó chịu, có lẽ do đội Kỵ binh đi trước, hay cảnh sát cho ngựa đi tuần để giữ an ninh. Cuộc diễn hành mở đầu bằng đoàn Quân nhạc mặc đồ đỏ, tiếp đến là những đơn vị của thời Gallipoli, trông rất tội tình, già yếu..Những người đi không được thì ngồi trên những chiếc xe quân sự mui trần thường thấy do một nữ quân nhân Úc rất xinh xắn lái. Có những đơn vị chỉ còn có 2 người, kể cả người cầm hiệu kỳ nữa là 3, chắc năm tới đơn vị này sẽ xoá tên! Trong hàng ngũ diễn hành có những người con cháu họ đi thay, ngực cũng đeo đầy huy chương của thân nhân họ, có thể người ấy đã già không dự được hay đã chết. Đám cựu binh Đệ 2 thế chiến còn đông, nhưng cũng đã già quá. Đám cựu binh chiến đấu ở VN đông nhất (vì họ đã tham chiến đến 40 ngàn lính và tử trận hơn 500/ Mỹ có nửa triêu quân và chết 58 ngàn lính/VNCH khoảng 1 triệu và chết 300 ngàn lính, vây ai là “thỏ đế” nhưTruyền thông Tây phương bôi bác trước đây?) và họ còn khá trẻ. Có người vừa đi vừa khóc có lẽ vì nhớ đồng đội dù vết thương lòng cũng đã trải qua hơn 20 năm rồi (Úc dự trận từ 63-72). Đám cựu binh này trên ngực đều mang huy chương có cờ vàng, nhiều người đội nói lưỡi trai vàng gắn cái huy hiệu đề "Vietnam Veterans" chung với cờ vàng 3 sọc đỏ nhỏ, cùng con Kangaroo màu đen. Trong khoảng diễn hành này, ai là người VN đều muốn rơi nước mắt vì thấy hầu hết hiệu kỳ của những đơn vị họ đều màu vàng có 3 sọc đỏ, với chữ "South Vietnam"rất nhiều, lẫn với những cái tên thân thương ghi lớn trên hiệu kỳ như: Núi đất, Vũng Tàu, Phước Tuy, Bà rịa, Biên Hòa, Sài gòn...Có một người cưụ chiến binh trong nhóm này dẫn theo một người đàn bà VN, chắc là vợ hay tình nhân của anh ta! Thỉnh thoảng cũng có những người con họ đứng ngoài giơ tay cao khoác và la "Daddy!Daddy!" khiến người bố quay lại giơ tay chào cười rất hãnhdiện...Hẳn những người con đó phải hiểu tại sao Bố mình có mặt trong đoàn quân này và đã từng chiến đấu cho VN!

Năm nay có thêm những đơn vị mới diễn hành như đơn vị tham chiến ở Somalia dưới ngọn cờ của LHQ, nên thấy họ đội Béret màu xanh lam. Hết đoàn cựu binh Úc thì mới tới các đơn vị Đồng Minh như Ba lan, Tiệp khắc, Estonia, Mỹ , Pháp và sau cùng là VNCH (vì vần "V"). Năm nay thấy anh em đi khá đông, mở đầu là một nữ cựu binh(?) trông khá xinh, mặc áo dài đen thêu hoa, quần trắng, cầm tấm bảng nhỏ ghi"Republic of Vietnam", sau là toán Quốc Quân kỳ do anh em bên TQLC phụ trách, đến là đoàn cờ Úc, rồi mới tới các cựu binh, cũng có vài nữ quân nhân tham dự cuộc diễn hành này. Dù tôi không tham dự trong đoàn diễn hành nhưng tôi vẫn gần gũi với anh em. Tôi cần ở ngoài để làm những công tác khác có lợi hơn như ghi lại cuộc diễn hành này tường trình cho mọi người biết sinh hoạt của anh em chẳng hạn...

Năm ngoái tôi được một người bạn văn nhỏ ở Melbourne - cô DQ, dù hãy còn trẻ nhưng cô ấy rất thương cảm những người lính VNCH trong nhiều tác phẩm của mình, viết cho tôi một bức thư nói" Kỳ ANZAC rồi em đi dự, đứng ngoài nhìn anh em cựu chiến binh mình đi diễn hành hốt nhiên em bật khóc". Tôi viết thư cảm ơn cô ấy đã chia xẻ với những người lính ngã ngựa bất hạnh này, dù họ đã tận tình chiến đấu cho Tổ quốc trước đây mà không thành vì những lý do ngoài quyền hạn của họ...

Tôi cũng nhặt một cành khuynh diệp từ chiếc hộp của những em bán rong có ghi hàng chữ"A gift from Legacy" cài lên ngực áo như những cựu chiến binh Úc khác, dù không rõ nó biểu tượng điều gì trong ngày lễ to lớn và đau thương này...


*Nguyễn-Tư


XIN ĐỪNG NHỎ LỆ U HOÀI - Trầm Vân



XIN ĐỪNG NHỎ LỆ U HOÀI

Xin đừng nhỏ giọt lệ buồn
Dẫu đau cũng cố kiên cường đứng lên
Hết xui rồi sẽ tới hên
Sẽ là ngày mới đắp mền thương yêu

Qua cơn giông bão xế chiều
Là bình minh sáng chim reo tưng bừng
Là êm xuôi chảy dòng sông
Tiếng chèo khua sóng qua lòng hân hoan

Tình yêu trót lỡ ly tan
Vẫn còn những kỷ niệm vàng bên nhau
Xin đừng nhỏ giọt lệ đau
Vẫn còn ký ức đỏ màu con tim

Mặc đời lắm chuyện đảo điên
Sa chi lệ để ưu phiền bạc môi
Cứ an nhiên nở nụ cười
Thương yêu giăng chiếc võng đời đong đưa

Mặc đời giông bão gió mưa
Lấy yêu thương để che dù đời qua
Chừng như xuân đến mượt mà
Cõi lòng rộng mở thứ tha yêu người

Trầm Vân



CHUYỆN BÂY GIỜ MỚI KỂ - Trần Ngọc Ánh



CHUYỆN BÂY GIỜ MỚI KỂ


Cuối năm lớp 9 tôi  bắt đầu biết mộng mơ ngoài cửa lớp, thích đọc thơ tình, nghe nhạc buồn , yêu màu tím, thích đi lang thang đường Giao Hạ sau giờ tan học, thích uống sâm bổ lượng dưới chân cầu Bon buổi trưa,  thích ngồi cà phê quán Trang buổi tối...Nói chung cái thời vàng son con gái thì thích đủ thứ mà không biết chắc mình thích nhất cái gì! 
Tình cờ đọc bài thơ " Pleiku có gì lạ" của anh chàng lính nào đó đóng quân trên phố núi heo hút, " Nếu em hỏi Pleiku có gì lạ, anh kể em nghe những buổi chiều vàng, mà nhiều đêm anh nằm chờ trời sáng, để nhìn mặt trời trên đỉnh sương tan...hai ngón tay vàng khè cay đắng, anh uống cà phê như uống cô đơn" . Thời chinh chiến đánh nhau ì xèo, sống chết không biết lúc nào nên cô nữ sinh dễ mũi lòng trước nỗi buồn nhè nhẹ của chàng lính trẻ, thế là tôi viết thư làm quen với mấy dòng theo kiểu tìm bạn bốn phương đẹp xấu tùy người đối diện dù biết mình có chiều cao khiêm tốn, thân hình hơi bé bự, và nụ cười răng thỏ.
Thư qua thư lại đâu cả năm trời, thật tình tôi cũng không biết gì để tám ngoài chuyện trời trăng mây nước, .”. hôm nay bé đi học, sáng sớm trời mờ mờ sương, bé đi ngang qua con đường Giao Hạ thấy hoa bằng lăng nở tím, bé chợt nhớ anh .” chời ơi cải lương hết biết!! Nhưng anh chàng thì rất chân tình, thư nào cũng dài mười mấy trang giấy học trò kể lể nỗi niềm tâm sự của lính nơi tiền đồn xa xôi, và dĩ nhiên là luôn kèm theo đôi vần thơ làm tim tôi nhúc nhích “ Em có về qua con đường Giao Hạ, ngắt dùm anh đôi cánh lá me xanh, viết yêu thương trãi đầy trên trang lá.. Không biết tôi tả con đường Giao Hạ ở Sóc Trăng ra sao mà anh chàng tưởng tượng nó thành con đường Duy Tân cây dài bóng mát tuốt trên Sàigòn có lá me bay bay, nhưng không sao, đường nào cũng đẹp cũng thơ trong tuổi học trò
Và dĩ nhiên tôi cũng đâu dấu kín mối tình lãng mạn người yêu của lính này với đám bạn nghịch ngợm, những lá thư được chuyền tay nhau đọc rồi cười khúc khích, có đứa còn thuộc thơ chàng hơn là thuộc bài trong lớp, có đứa ái mộ xin làm em gái hậu phương.
Mùa Noel năm đó chàng có mấy ngày phép để bay về gặp bé, dù hơi run nhưng phải đối diện sự thật thôi, hên là thời gian này Ba Má tôi đi vắng, tôi bèn rủ mấy đứa bạn tới nhà bày đặt nấu nướng ăn reveillon cho có vẽ trịnh trọng ấm cúng với đèn cầy lung linh và bình bông bụp, bông giấy màu sắc tá lã (nhà có gì bứt nấy mà). Tôi và lũ bạn hồi hộp chờ đến giờ hoàng đạo, tôi hình dung một chàng lãng tử khoác áo trây di, dáng cao lớn hiên ngang với đôi giày đinh bết bùn đất hành quân.
Rồi nhà thơ cũng xuất hiện trong bóng đêm mờ ảo, tôi thì thào “chời ơi sao mà ..” chàng không giống người trong mộng của tôi, nhưng nhỏ Huỳnh đã nháy mắt “suỵt để đón khách đã”, thật tình chàng cũng dễ thương với giọng Huế nhỏ nhẹ và đôi mắt ướt buồn. Cả bọn hào hứng nhập tiệc vì ..quá đói. Thật là một đêm Giáng sinh đầy ấn tượng!
Mặc dù chiều cao của tôi không tăng nhưng tình yêu của chàng thì mỗi ngày mỗi lớn, những bài thơ vượt không gian cách trở để bay vào cặp tôi trĩu nặng, đến nổi tôi phải tự hỏi lòng mình đã thật sự yêu chưa hay chỉ là những xao xuyến đầu đời của tưổi mới lớn?
Mùa hè 74 trong một chuyến về phép, chàng nhất định vào nhà gặp Ba Má tôi để bàn chuyện cưới xin, phượng đỏ có chàng tới hỏi thiệt sao? Ba tôi thì ưng bụng cái thằng hiền lành, nhưng Má tôi lại nhất quyết nói không, bà bảo tôi còn nhỏ phải xong chuyện học hành, vã lại anh lính tráng rày đây mai đó ..lấy chồng chiến binh mấy người đi trở lại, tuy bà không nói ra nhưng tôi biết Má sợ út cưng của Má lấy chồng khổ sớm. Anh buồn hiu ra về, tôi tưởng cuộc tình đầy thơ đầy nhạc suốt hai năm ba tháng mười bảy ngày của tôi tới đây là chết ngắt khi tôi thấy Má mình có lý!
Vậy mà anh cũng nán lại Sóctrăng suốt mấy ngày phép đó, chỉ để hẹn nhau ở đầu đường Giao Hạ rồi đi uống cà phê, hay ăn mì ở mấy tiệm vắng trong chợ (sợ Má thấy), bên anh tôi vẫn cố nói cười ríu rít hồn nhiên cho nguôi ngoai nỗi hụt hẩng trong trái tim chàng. Một lần hai đứa đang ăn kem vui vẻ, bổng anh nắm chặt tay tôi hỏi “ bé có yêu anh không ? dạ có, vậy bé có chịu trốn nhà theo anh không? Tôi như sắp khóc “dạ không”. Anh có đem theo cây súng, bây giờ anh bắn bé chết và anh tự tử theo, vậy bé có còn yêu anh không?”  tôi hốt hoảng bật khóc”dạ không” một cách cương quyết trong khi  anh cười phá lên.
Có thể anh đang thử lòng tôi mà cũng có thể tình yêu của tôi chưa đến độ chín rục để chuẩn bị cho cuộc sống lứa đôi mật ngọt, tôi thấy áy náy như mình có lỗi trong cuộc tình tan này, biết sao giờ?
Thời gian còn lại tối nào anh cũng đi ngang hẻm nhà tôi huýt sáo bài “Hạ trắng” vu vơ như một ám hiệu để tôi bước ra sân cho anh ném bài thơ bay vèo qua hàng rào bông bụp, hên là cổng rào đã khép chớ con Mực mà nhào ra thì chắc anh phải chích ngừa..
Những bài thơ được viết nắn nót trên tờ giấy bạc gói thuốc lá, nhưng tôi nhớ hoài lời thơ cuối cùng này.
Tặng em khoảnh khắc thời gian
Nhớ về Giao Hạ hai hàng cây xanh
Xây bao nhiêu mộng không thành
Tình yêu em vẫn mong manh tình buồn
Tặng em khoảnh khắc vô thường
Ai se duyên phận đôi đường hợp tan 
Thức giấc giữa ánh trăng vàng
Gửi cho em chút bẻ bàng tình xưa
Cho dù nắng cho dù mưa
Cho dù đứng giữa đôi bờ âm dương
Vì đời một gió hai sương
Người đâu lúc ghét lúc thương vô cùng
Thương người nước mắt rưng rưng
Thương ta thân phận tưng bừng cuộc chơi
Mai sau tắt ánh sao trời
Tặng cho em cả một đời hư vô . 
Hai đứa chia tay lặng lẽ, tôi khóc thút thít cả tuần mà không hiểu sao mình khóc, mới yêu chút xíu thôi mà, nếu nói như Má tôi chuyện vợ chồng phải có duyên nợ thì cũng đành thôi, tôi nghĩ chẳng bao giờ ta gặp nhau lần nữa, Pleiku xa xôi nắng gió.
Rồi tàn cuộc chiến, chắc số phận anh cũng như bao người lính khác phải vào tù, tôi cũng có chồng sau đó ít lâu, trong dịp lên Đàlạt chờ sinh đứa con đầu lòng, tôi tìm thăm nhà o dượng của anh, nghe kể Ba Mạ anh mất sớm ngoài Huế, mấy anh em phải vào đây sống với người thân, nên ở Đàlạt anh có nhiều kỹ niệm.
Ngôi nhà nhỏ trên đồi và bên bếp lửa ấm cúng, tôi lại ngở ngàng nghe chuyện của anh, người phụ nữ dí dí que cũi trong lò than như đang nén  sự tấm tức về nổi buồn của mình “ anh ấy vẫn còn yêu chị, anh ấy đã làm biết bao nhiêu bài thơ cất trong ngăn kéo mà em vô tình đọc được, anh ấy còn dành đặt tên con bé là Trần thị Giao Hạ, em biết ngay anh ấy chỉ nghĩ tới chị mà thôi..” Ôi cái anh chàng này! tôi kêu lên khi nắm đôi tay thô ráp nhọc nhằn của Thu chia sẽ, lấy chồng nhà thơ thật bất hạnh, tình yêu anh ấy đã làm tổn thương trái tim người vợ trẻ như Thu
“ chuyện qua lâu rồi Thu ơi, bây giờ mình đã có chồng và sắp sinh con, mình cũng quên đi những lãng mạn thời còn trẻ, mình xin lỗi đã làm Thu buồn, thật tình mình không nghĩ là anh ấy tệ như vậy” Tôi an ủi Thu và lại thấy mình như người có lỗi!
Tình Yêu thật kỳ lạ, nó không thể giống như một cái bánh to để chia đều sự ngọt ngào cho những người mình thương mến, mà chỉ là cục kẹo nhỏ để dành tặng riêng cho ai đó thôi, nên kẻ đến sau thường bị nghe bài “anh còn nợ em” hổng biết khi nào mới trả dứt.
Gần năm mươi năm trôi qua, Love Story của tôi là một kỹ niệm đẹp đáng nhớ đời, lúc còn ở Sàigòn thỉnh thoảng tôi gặp anh,  như hai người bạn thân thiết lâu ngày, chúng tôi kể nhau nghe những buồn vui được mất trong cuộc sống thăng trầm của mình, Thu đã ly dị sau đó vài năm, anh cưới thêm bà vợ nữa cho đời bớt buồn, con bé Giao Hạ đã mất trong một tai nạn năm nó 16 tuổi khiến anh như bị điên, suốt ngày lang thang trong rừng thông trên Blao, anh nuôi ong lấy mật mà sao đời anh cay đắng quá. Anh lại tiếp tục làm thơ tình khi bà vợ sau bỏ anh để lấy một tên Giám đốc giàu sụ..Thơ anh lại chất đầy ngăn tủ mà không có ai lén coi để biết anh viết gì trong đó.
Rồi tôi theo chồng xa xứ, trước ngày đi anh còn nhắn vào phone tôi hai câu thơ “ ngỡ rằng ong bướm đã say, em qua bến lạ còn quay quắt buồn”. Mãi cho đến bây giờ ngồi nghĩ lại, không biết ngày xưa mình có yêu anh nhiều như anh đã yêu mình không, hay chỉ là thoáng bâng khuâng của mối tình đầu. Ôi “mối tình đầu của tôi, là cơn mưa giăng giăng ngoài cửa lớp.”
Bây giờ hai đứa đều già theo năm tháng, ở bên kia nữa vòng trái đất, anh đang thoi thóp từng ngày đếm bước thời gian, không biết anh có còn nguồn thơ để tặng người phụ nữ nào yêu anh tình cuối?  Nhưng trong trái tim tôi, mối tình đầu của năm 17 tuổi vẫn luôn tươi trẻ, hồn nhiên và tinh khôi như ngày nào.

Trần Ngọc Ánh HD 68- 75



7 CÁCH BỔ DƯA HẤU NHANH CHÓNG, ĐẸP MẮT...



7 Cách Bổ Dưa Hấu / 23: 44

Wednesday 8 July 2020

XƯA RỒI DIỄM!”... ( Nguyễn Tư )


XƯA RỒI DIỄM!”...

*Tản-mạn Nguyễn-Tư


Người mình ngoài cái tật xấu“Gì cũng cười” như Cụ Nguyễn-Văn-Vĩnh chỉ trích ngày xưa một cách nặng nề coi như một thói hư cần phải bỏ ngay qua những câu văn nghe ra rất nhức-nhối xét về mặt tinh thần tự-ái Dân-tộc:"An-nam ta có cái thói lạ là gì cũng cười! Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười, nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang..." thì ngày nay lại thêm cái tật (không biết xấu hay tốt?) là hay lấy những lời Nhạc để đổi lời hoặc thêm thắt chút đỉnh nhằm giễu cợt đời như:"Cây cuốc cong thì cây cuốc gãy, cây cuốc gãy thì mình khỏi ra đồng..." để nhại một bài hát CM thời 75  mà người dân  miền Nam đang phè-phỡn rong chơi, bỗng dưng VC vào, thế là tất cả phải vác cuốc ra đồng đào mương gọi là làm “thủy lợi” hết, nên họ chỉ mong cho cây cuốc gãy mà thôi, hay mỉa mai hơn là câu “Ông khóm ơi, ăn khoai mì ngứa quá”(dường như cũng từ bài hát trên dựa theo câu “Tổ quốc ơi…quê hương mình đẹp quá …”) để chỉ thứ thực phẩm hồi ấy mỗi ngày thay cho gạo nàng hương trước đó phủ-phê…Và, bạo mồm hơn là “Dường như có bác Hồ trong nhà thương Chợ-quán / Vừa mới ra bị xe cán bể đầu…” từ bài “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” hay khủng khiếp hơn là câuĐoàn quân VN đi chung lòng bán nước …” cái này thì cực-kỳ “phản động”, bị gỡ lịch “mút mùa lệ-thủy”, hay nặng hơn “mất cái đội nón” như chơi …Trong khi đó bọn tôi trong tù sáng nào chúng cũng bắt hát bài chào cờ  “Mặt trận giải phóng miền Nam” do Huỳnh Minh Siêng biên soạn (hắn chính là tên VC gộc Lưu Hữu Phước, đồng tác giả bài “Tiếng gọi SV” năm 45 mà VNCH sau này sửa lời đôi chút làm Quốc ca mới là oái-oăm, bởi miền Nam thiếu gì bậc tài hoa Âm nhạc sao không sáng tác nổi một bài Quốc ca cho mấy chục triệu dân Tự do hát, mà lại đi chôm bài của một anh VC, khiến cho hắn ngoài Bắc hô-hoán hắn sẽ kiện VNCH ra tòa Quốc tế vì miền Nam ăn cắp bản quyền nhạc của hắn!? …Bài hát GPMN này thường bắt đầu bằng câu “Vùng lên …nhân dân miền Nam anh hùng…” mà bọn làm phim GP thường lấy làm đài hiệu ban đầu, quyện với lá cờ xanh đỏ hai màu bay phất phơ trên màn ảnh.… mỗi khi chiếu phim thời  sự  để tuyên  truyền sinh hoạt CM …thì tụi tôi chỉ lép-nhép thành : “Trời ơi, con heo bà Năm chết sình” …dĩ nhiên chỉ lén thôi …không thì sẽ bị mọt gông không thấy ngày về…để vui chơi vô tội vạ giải sầu thôi hay đúng hơn là cách phản kháng tiêu cực..Nhưng thường những bài ca nhại hầu hết chỉ để vui chơi, giải trí như thời sau 54, người ta ưa nghêu-ngao:"Tóc em dài sao em không uốn, tốn bao nhiêu anh trả tiền cho..."nhại từ một bài Tình ca rất xưa tên “Chưa dứt đường tơ” thì phải? Vui hơn nữa là người ta nhại một bài hát đồng quê của Hoàng Thi Thơ với những câu rất tiếu-lâm như:"Ai đang đi trên cầu Bông, rớt xuống sông ướt cái quần ni-lông" từ bài “Trăng rụng xuống cầu”.. rất thịnh hành thời 55 do cặp song ca thời danh người Huế, Nguyễn-Hữu Thiết và Ngọc-Cẩm léo-nhéo suốt ngày …đến độ danh hài miền Nam Trần Văn Trạch ưa giả giọng hát hai người này để chọc cười thiên hạ chơi… kể cả những tác phẩm tiền chiến rất nổi tiếng của Lê Thương, như trường ca “Hòn Vọng phu” cũng không được buông tha, với câu: “Má ơi con đã lớn, má cho con đi lấy chồng, nếu không con tự túc …” nhại từ câu: “Có ai xuôi vạn lý, nhắn đôi câu đến nàng, lấy cây hương thực quý… …” .Ngay như nhac Phạm Duy cũng vậy, như bài “Ngày xưa Hoàng Thị” phổ thơ Phạm Thiên Thư, một nhà Thơ rất nổi tiếng trước 75, nhưng vì trốn lính phải cạo đầu đi tu thành Sư, sau 75 thì hoàn tục… …Bài thơ này thuộc loại tình cảm thời học trò cực kỳ lãng mạn và rất trong sáng …thực sự nguyên bản không hay bằng bài phổ nhạc, phải công nhận Phạm Duy là người phổ Thơ hay nhất  ở VN …ấy vậy mà người ta vẫn nhại như thường …Bài đó mở đầu là “Em tan trường về/ Đường mưa nho- nhỏ……/ Ôm nghiêng cặp vở/Tóc dài tà áo vờn bay…” họ lại nghêu-ngao rằng “Em tan trường về/ Trường tan em về/ Em về trường tan …trường tan …”thì mọi nghiêm túc lãng mạn bay đâu mất tiêu, chỉ còn lại “em” ở đây là một học sinh rất quậy phá, làm tan nát trường học luôn …


Nhạc TCS rất nghiêm túc, nhưng kể từ 30-4-75, ông lên Đài phát thanh Sài-gòn hát bài “Nối vòng tay lớn” để đón mừng CS vào, cùng kêu gọi đồng bào miền Nam nên ở lại vì đất nước đã thống nhất, nếu ai còn vượt biên coi như “phản quốc” thì người dân miền Nam đủ bằng chứng hiển nhiên để xác nhận TCS là “CS nằm vùng” không chối vào đâu được nữa, nên dân Nam rất ghét CS miền Bắc, lẫn TCS …vì vậy họ đã nhại bài nhạc ấy bằng mấy câu đậm màu sắc kỳ thị vùng miền cho bõ ghét: “Từ Bắc vô Nam, nối lại biển khơi… tay ôm bó rau muống, tay dắt con cầy …”.



Nhưng có lúc họ lấy những lời nhạc khác để tạo thành những thành ngữ rất vui dùng hàng ngày mà nếu người đời sau không rành thời đại trước, sẽ rất khó truy tầm nguồn gốc, như để diễn tả sự chao đảo qua lại thì họ nói:"Lắc-lư con tàu đi"lấy từ một bài hát về Hải quân tên “Hoa biển” hoặc như muốn nói cái gì không đổi thay thì họ nói:"Muôn đời lục quân VN..."lấy trong bài "Bộ binh hành khúc" hay lúc chia tay trong tình yêu họ vẫn mượn đề bài hát của Trần Thiện Thanh giễu cợt “Tạ từ trong đêm” thôi em/anh ơi…hay mỗi khi say xỉn mút cần câu, cho chó ăn chè tùm-lum, đi xiểng-liểng như mieng vẫn ca câu “Anh chưa xỉn đâu em” nhại từ bài “Anh không chết đâu anh!” của Trần Thiện Thanhca ngợi cái chết Anh hùng của người lính mũ Đỏ tên Đương bên Hạ Lào…


Và, trước đây không lâu, trong nước sử dụng một đề nhạc của Trịnh-Công-Sơn là "Diễm xưa" bằng câu giễu:"Xưa rồi Diễm!" để chỉ điều gì cũ rích, "quá date" rồi, ai cũng biết, nói thành thừa! Đơn giản như vậy thôi, vì nó là bài hát hay, thời thượng, cái tên nghe rất "romantic" nên rất dễ đi vào lòng người nhờ 2 yếu tố: "Diễm" là một cái tên đẹp vì nguyên ngữ của chữ Diễm theo Hán tự đã có nghĩa là "đẹp" rồi (đồng nghĩa với chữ "lệ" như lệ-xuân: mùa xuân đẹp, viết khác với chữ "lệ" là nước mắt),mà  chữ "xưa" là một tỉnh từ Nôm hoàn toàn, chỉ cái gì cũ, đã qua, nhưng ở đây bao hàm thêm ý nghĩa tiếc nuối trong tên bài nhạc này. Nó là một cái tên thực, của một người thực, chuyện thực: Bích-Diễm học trường Nữ Đồng Khánh ở Huế - nơi TCS đã lớn lên trong thời kỳ thơ mộng nhất của mình. Diễm theo hình thực in trong “Tuyển tập nhiều người viết” về TCS, thì nhan sắc không có gì đặc biệt lắm, có thể nói là ở mức trung bình kém, nhưng có vẻ hiền lành và thùy mị, khác với sự suy đoán của những người nghe bài nhạc này được bao quanh những đồn đại, những huyền thoại về cuộc tình đầy lãng mạn với Nhạc sĩ họ Trịnh lúc ấy chưa nổi tiếng ở một xứ rất thơ mộng này là Huế! Người ta bắt đầu rõ về mối tình này nhờ một bài viết ngắn của TCS có tên "Diễm của những ngày xưa"thì mối tình này cũng chỉ là một thứ tình lãng-đãng, hư-hư thực-thực của hầu hết Nghệ sĩ mà thôi. Diễm thực sự chỉ là cô nữ sinh có dáng mảnh khảnh cao ráo, hiền lành dễ thương, con nhà tử tế, có giáo dục, thường mặc áo quần dài trắng, nghiêng nón, ôm cặp sách, ngày hai buổi đến trường và về nhà qua hàng cây long-não trước nhà TCS, mà anh ta chỉ là một gã si tình thường ngồi trên bao-lơn nhà mình để ngắm nhìn hình ảnh mềm mại, dễ thương đó mà thôi!? Chỉ nghe nhạc sĩ họ Trịnh nhắc đến nụ "hoa sầu đông"… (mà quê  tôi gọi trại là bông “thầu đâu” có hai màu trắng tím, người Bắc gọi nó là cây “Soan ta” có trái từng chùm chín màu vàng rất đẹp nhưng rất đắng ăn không được,  hình thon gọn nên có thành ngữ “mặt trái soan” đạt tiêu chuẩn Thẩm mỹ của phụ nữ đẹp, khác với cây “Soan tây/Phượng vĩ”, người Trung gọi là cây “Phượng tây” để phân biệt với cây “Phượng ta” ưa trồng ở các ngôi Chùa cổ)… mà cô học trò tên Diễm bé bỏng này đền đáp chút tình của TCS bằng cách cô lén đặt nó nơi cửa sổ nhà TCS mà thôi, không hề có những hẹn hò sôi động, nóng bỏng, nắm tay nắm cẳng nào ra-rít như những mối tình trai gái thường tình khác...Ngoại trừ,TCS một lần đến nhà cô này chơi nhưng phải cần một người bạn thân tháp tùng là hoạ sĩ Đinh Cường lúc đó đang học trường Mỹ thuật ở Huế, mà nội dung cuộc viếng thăm đầy "âm tính" khi ông Họa sĩ tiết lộ trong bài viết của ông đại khái rằng: Bố của Diễm là một Gs Pháp văn dạy bên Đồng Khánh, vốn khó tính đã rất "khó chịu" khi thấy TCS tóc tai bù xù dài chấm ót - một mốt tóc bấy giờ bị các ông bà cụ lúc ấy xem như một thứ bê bối không bao giờ được "chấm đậu" trong bản lựa chọn "ý trung nhân"cho con gái nhà mình...Theo TCS, mối tình chả đến đâu này, dù rất đẹp, nhưng buồn bã, đối với ông (có lẽ nhờ nụ hoa sầu đông máng nơi cửa sổ làm chứng tích…), nhưng theo tôi, TCS rất ư quá đáng khi mê phụ nữ, đôi khi làm mất đi đàn ông tính của mình thành ủy mị, như lời một người bạn đồng nghiệp, đồng môn ở trường Sư phạm Qui nhơn (chuyên huấn luyện Giáo viên Tiểu học  với Tú tài 1 học 2 năm)  cùng trọ với TCS ở Blao kể: khi cô Kim-Vui, tài tử Điện ảnh khét tiếng ở Sài gòn có ghé tặng ông một hộp Chocolat, thay vì ông mở ra mời anh em chung ngụ nhâm-nhi với nước trà cho vui, thì ông cất giữ kín không dám ăn miếng nào, mà cũng chả mời ai, cứ vài bữa thì ông đem ra phơi, cho đến khi nó mốc meo hết mới liệng …Phải chi nó là nụ hoa khô hay cái khăn tay… thì chả nói làm gì, nhưng đây là thức ăn…Thảo nào ông từng viết “Yêu em quì gối vong nô…”. thì tiêu tan hết sĩ khí ..!.  Vì vậy, đoá sầu đông của Diễm máng nơi sửa sổ nhà ông làm sao vơi được, nó phải  là một kỷ niệm đẹp trong những mối tình lãng-đãng của ông nhưng lại rất sâu đậm, đến độ ông phải làm một bản nhạc rất hay mà bất cứ ai yêu nhạc cũng đều biết là "Diễm xưa" và thấp thoáng cái dáng gầy nhỏ bé này trong hầu hết những bản tình ca của ông sau này, khi Diễm đã trở thành một người khác, để lại cho Nhạc sĩ TCS nỗi đau không phải là nhỏ-nhoi gì khi ông viết lời cho bài hát có câu "Làm sao em biết bia đá không đau" có nghĩa rằng: đá cũng còn phải đau, huống nữa là con người - nhất là một con người đầy nhạy bén, và sầu mộng như TCS....Nhưng không phải vì thế mà ông vẫn đeo đuổi hình ảnh của Diễm đậm nét như thời trai trẻ hoài được, mà nó phải trở thành "Diễm xưa" phôi-pha - chỉ phôi-pha thôi, chứ không bao giờ mất hết, nên ông đã kết luận bài viết bằng một câu rất triết lý, mà có lẽ đã làm con người còn trái tim thì ai cũng phải thế mà thôi:"Kỷ niệm nào cũng đáng nhớ, nhưng cứ phải quên…” Vì thế, theo tôi,  Diễm, với ông không bao giờ “xưa” cả…Nghe nói bố của Diễm là người Bắc thuộc thế hệ xưa, lại làm thầy giáo nữa thì đương nhiên phải “khó” là cái chắc rồi, còn TCS chỉ là một anh Nghệ sĩ nghèo, lúc ấy chưa nổi tiếng, lại để tóc dài… thì coi như phải bị từ chối là phải…Sau này Diễm học trường QG Hành Chánh ngạch cán sự ở Sàigòn rồi có chồng, xuất ngoại …
Nhưng TCS vẫn còn may mắn hơn nhiều khi lúc ấy cô em của  Diễm là Dao-Ánh mới 15 tuổi(TCS 24 tuổi) rất mê nhạc TCS, cộng với lòng thương cảm về mối tình tuyệt vọng của Nhạc sĩ và chị mình, nên cô bé này tự ý liên lạc với TCS  để an-ủi (thực ra chỉ là một cái “Prétexte” mà thôi, giống như khi người phụ nữ nói “Bữa nay, không hiểu tại sao tự dưng em lại nghĩ tới anh…” họ tự hiểu mình rất rõ vì sao, và chữ “nghĩ” thay cho “nhớ” nó đường-đột quá, đó là một cách tỏ tình thầm lặng mà họ không dám nói ra)…  ông anh rể hụt …Rồi từ đó mới xảy ra mối tình đúng nghĩa của đôi trai tài gái sắc khi TCS dạy tiểu học ở Blao …và cô bé đã trở thành nữ sinh Trung học xinh đẹp…làm tốn biết bao giấy mực báo chí thời bấy giờ trong cái ý niệm “Tình chị duyên em”, kéo dài cả thập niên với 300 chiếc thư tình qua lại thắm thiết, nhưng rồi TCS không thể cưới Ánh làm vợ vì anh chàng này được sinh ra chỉ để “yêu” mà thôi, chứ không phải để “cưới” người khác,  nên cô ta không có lý do để ràng buộc nữa mà phải lấy chồng ở Mỹ…Có một đều ít ai biết TCS đã cưới vợ một lần, điều này do 2 người bạn thân nhất của ông từ khi ở Huế là Họa sĩ Trịnh Cung và Đinh Cường kể lại trên báo rằng, họ đã tặng cho TCS chiếc nhẫn, và đứng ra làm đám cưới cho TCS với cô vũ nữ người Hoa mà TCS rất mê ở Chợ lớn …Nhưng sau khi làm hôn lễ xong thì hai anh bạn ra về, để cho cặp tân hôn hưởng Hạnh phúc riêng tư thông lệ …Tuy nhiên khi đi một lát, thì bỗng dưng hai anh bạn nghe tiếng chân người chạy thình-thịch sau lưng, họ quay người lại thì thấy TCS còn đang mặc đồ Veste, họ liền hỏi “Sao kỳ vậy?” với vẻ cực kỳ ngạc nhiên, thì TCS với vẻ mặt hốt hoảng, thở hổn-hển nói không ra lời, nhưng đại khái là ông ấy cảm thấy không o.k khi ở lại một mình … Điều này chứng tỏ TCS “có vấn đề” cả tâm-sinh lý chứ người bình thường không ai làm như vậy cả, khi TCS mới 30 ngoài như hai ông bạn khai, nhất là đối với người phụ nữ mà mình đã xin cưới họ làm vợ đàng hoàng thì họ sẽ bị xúc phạm biết bao nhiêu vì bất cứ lý do gì trong đêm Hợp hôn như vậy? Sau này TCS cũng có thổ lộ là ông suýt cưới vợ mấy lần, kể cả với cô Dr. bên Pháp, mà gia đình ông rất hãnh diện chỉ chấp nhận người này là xứng mặt với TCS và gia đình họ mà thôi, nên hai bên họ hàng đã hẹn ngày và làm đủ lễ …nhưng đùng một cái TCS tuyên bố “cancel” với lý do không chánh đáng rằng bị tai nạn gì đó … Cho nên, việc ông không đến được với Dao-Ánh dù họ đã liên hệ nhau cả thập niên là điều rất dễ hiểu, mà thực ra rất đáng thương cảm cho ông lẫn Dao-Ánh, nhất là ông dù sao vẫn mang tiếng là  “mày râu” …Sau này ở Mỹ nghe tin TCS đau nặng sắp chết thì cô từ Mỹ về Sài gòn thăm TCS nằm ở Bịnh viện lần cuối cùng… TCS rất cảm động sáng tác thành bài “Xin trả nợ người” có những lời oán trách không nhẹ nhàng chút nào tất nhiên không thiếu vắng niềm đau…và đã bắt đầu bằng một câu hoàn toàn trách móc “Hai mươi năm em bỏ một người …”  dù  chỉ  nói xa xăm “một người” nhưng bất cứ  ai cũ ng biết người  đó chính là  Tác giả. Người mình ưa dùng chữ “bỏ” sao nghe nó phũ-phàng, nó tội tình làm sao ấy, khác với chữ “thôi” đồng nghĩa nhưng nhẹ nhàng hơn nhiều so với chữ “bỏ” hàm ý dứt khoát, quên lãng, như chữ “bỏ xó” chả hạn …tức là cho vô một góc tối nào đó miên viễn đừng mong gì có việc đoái hoài …Sở dĩ vô câu đầu TCS chỉ xài đại danh từ thứ 3 bâng quơ mà không khẳng định, có lẽ vì lịch sự thế thôi, nhưng mấy câu sau thì khẳng định đại danh từ thứ nhất không khoan nhượng gì cả “It’s me/ tôi”…trong câu:  “Trả nợ một đời em đã phụ tôi …” rồi “Em bỏ tôi một thời bé dại, thơ dại ra đi không nhớ gì tôi ……quên hết tình tôi…” với những “notes” nhạc bỗng cao bất thường như một lời kêu gào thảm thiết thấu trời xanh! Ta để ý thấy câu trước chỉ trách “không nhớnhưng trong câu tiếp thì nặng tội hơn “quên hết” nghĩa là quên tuốt-luốt, quên sạch sẽ,  không còn hơi-hướm gì nữa cảdù trong những chiếc thư tình ấy có một chiếc thư ông thú nhận là chính ông đề nghị chia tay với người yêu thì trách nỗi gì chứ, mà  lẽ ra ông phải tạ ơn người ta suốt đời mới đúng, khi người ta dù đã có gia đình mà vẫn còn liên lạc với ông lai-rai qua những chiếc thư, và những bông cỏ khô ông đã ép từ cao nguyên Blao… Nhưng điều quan trọng hơn, dù không còn mặn mà như thuở đang độc thân Dao-Ánh vẫn giữ nguyên 300 lá thư của người tình cũ là ông, mà không thủ tiêu đi trước khi có chồng thì đó là việc hiếm hoi theo lẽ thường tình …Riêng đối với chồng nàng, chắc chắn anh chàng thừa biết mối tình lớn và công khai này của vợ mình mà vẫn không phản ứng gì thì một là anh ta làĐại trượng-phu” kiểu “Quân tử Tàu”, hai là anh ta thuộc hàng “bạc nhược” …Rồi đến khi nghe tin ông bịnh nặng nàng đã lặn lội từ Mỹ về thăm ông, để sau đó nghe nói là  cô bị chồng li dị vì lý do gì thì người ta có thể hiểu được, chắc ly nước chịu đựng phải tràn ra thôi …Đó là sự hy sinh vô bờ bến của “cố nhân”, vậy ông đòi hỏi người ta sao nữa, trách móc gì nữa ? Sau khi TCS qua đời Dao-Ánh mang tất cả mấy trăm cái thư tình của TCS gửi cho cô, về trao lại cho gia đình TCS lưu giữ, và mỗi lần gia đình cùng bạn bè làm “Event” nhạc tưởng niệm TCS đều có mời cô về tham dự, nhưng cô đều từ chối khéo … như thế cũng được hiểu rằng cô ấy đã sòng phẳng tình cảm với TCS rồi vậy …Dao-Ánh mới là người yêu đích thực của TCS chứ không phải Bích-Diễm, Ánh rất trẻ, vừa đẹp hơn người chị khá nhiều, cô dù người Bắc nhưng có nét rất “Huế”, dáng mảnh-khảnh và luôn mặc áo dài … có lẽ vì ở Huế từ bé và từng yêu trai Huế như TCS. Lẽ ra TCS mới là người “trả nợ” dù một ngày, chứ đừng nói một đời, mà không phải Dao-Ánh, bởi vì Ánh là người yêu TCS từ đầu đến cuối, rất tận tình, kể cả khi đã lập gia-đình thì không đáng trách chỗ nào nữa cả....



Về TCS, phải nói là tôi rất ngưỡng mộ về tài Âm nhạc của ông, khi ông bắt đầu nổi tiếng, đúng lúc tôi từ Trung vào Sài gòn học ĐH Văn khoa, là ngôi trường tôi rất nặng nợ, cũng là nơi TCS và Khánh Ly trình diễn những ca khúc hay nhất thời ấy …Ngoài TCS, tôi còn rất mến mộ Văn Cao trước đó, cũng như Đặng Thế Phong với những bài về Thu buồn vời-vợi ngoài Bắc, riêng với những tác phẩm bất hủ  của Văn Cao, từ trước 45, tuy ở vùng Kháng chiến , nhưng mấy anh chị tôi lại ưa hát hoặc thổi sáo những bài cực kỳ lãng mạn của  Văn Cao như: “Thiên thai, Buồn tàn Thu, Cung đàn xưa, và Trương Chi …” dù lúc ấy tôi rất bé nhưng cũng biết mê vẻ đẹp của Nghệ thuật, mà cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ, sao mà nó nhẹ nhàng, ngọt ngào và, siêu nhiên đến vậy? Nhưng đến khi tôi khám phá ra Văn Cao, người Nhạc-sĩ tài hoa này năm 45 vốn là tay CS trong toán ám-sát mật thời bấy giờ, lúc nào cũng có khẩu súng lục dắt trong lưng quần…và được CS bố trí đi giết những ai không theo họ hay nghi ngờ chống  họ thì phải “thịt” ngay, và Văn Cao đã đến tận nhà một người ở Hà nội mà ông nghi là “thân Nhật” rồi bắn chết tươi, dù mới chỉ “nghi” thôi mà đã giết người ta, đúng chính sách xưa nay của CS là “thà giết lầm hơn thả lầm” … thì lòng mến mộ của tôi mờ dần, dù nhạc ông thì tôi vẫn muốn nghe …Như vậy, với tôi, sự yêu Nhạc Văn Cao và lòng mến mộ ông là 2 con số nghịch đảo, bởi tôi quan niệm rằng một người Nghệ sĩ không thể nào “khát máu” như vậy được, thà đi lính ra trận hai bên bắn nhau tơi bời mà chả cần thấy mặt nhau, 8 thế bắn ở quân trường ít khi nào được sử dụng ngoài mặt trận cả,  mà  cứ thấy VC chạy lúc-nhúc đằng xa, vừa tầm sát hại, là giương súng bóp cò … không thì giờ đâu mà ngắm nghía qua “lỗ chiếu môn” như quân trường dạy gì ráo , bởi vì nếu mình chậm một giây là đã toi mạng… Nói tóm: bắn để tự vệ mình  trước tiên, như trong phim cao-bồi Mỹ vậy, lạng-quạng thì mình sẽ bị tiêu diệt ngay…VC thì họ cũng vậy đó thôi, vì bản năng sinh tồn của một sinh vật đều như thế : sống cái đã!Cho nên, ra trận đạn trúng thằng nào thì thằng đó rán chịu, chứ  bảo cầm cái súng dí vào đầu người ta bóp cò, thì   -  nói thực, tôi không làm được …!Chuyện đó nên để cho những  tay “giang hồ ” giết mướn,  hay “đao-phủ” làm chứ không phải Nghệ sĩ, vì trời sinh ra họ chỉ để cầm bút, cầm cọ, ôm đàn … sáng tác làm đẹp cho cuộc đời này mà thôi. Đó là lý do tại sao Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông từng tâm tình, cái nghề bóp cò không hợp với ông chút nào nhưng vì nhiệm vụ người lính thì phải ra trận thôi…nên sau này ông tìm mọi cách về Sàigòn để lập ban nhạc chơi trên TV rất nổi tiếng, hay tạo Trung tâm thu băng, dù lúc đó ông đã mang lon Tá…nói chi người Nghệ sĩ vô cùng tài hoa (làm nhạc , làm thơ và vẽ tranh) và mềm mại như Văn Cao …?Đó là chưa kể , trong bài “Tiến quân ca” của ông sáng tác khoảng năm 45 mà VC lấy làm Quốc ca từ ấy, trong đó có câu hát lên nghe rất rợn người “Thề phanh thây uống máu quân thù…” thì đúng là man rợ khát máu rồi còn gì nữa ? Lời ca này bị thiên hạ chửi rủa dữ lắm nên VC sửa lại cho nhẹ nhàng hơn “Vì nhân dân chiến đấu can trường”… dù thực ra đâu phải vì “nhân dân” mà vì “CS quốc tế” Nga Tàu như Lê Duẩn từng thố lộ trước Đại hội  của họ “Thực sự chúng ta chỉ chiến đấu cho Liên xô và Trung quốc” …vậy thì ai là lính “đánh thuê” như họ thường rêu-rao, và cháu nội ông ta hiện du học tại Mỹ, xứ họ luôn nói đang “rẫy chết”trước đây.  Nhưng Văn-Cao, sau này, cũng phần nào tỉnh ngộ nên có tham gia vào nhóm “Nhân Văn giai phẩm” để bị CS nó “đì” tới bến, không cho làm gì cả, ngoài việc vẽ tranh lai-rai phụ họa cho các tờ báo Hà-nội kiếm sống qua ngày …đến độ bà Văn Cao đã phát tức xỉa-xói “Chúng mày có làm gì ông Văn-Cao thì cũng phải đứng nghiêm khi bài Quốc ca của ổng được cử lên” …?


Riêng với TCS, tôi cũng ngưỡng mộ như vậy, nghĩa là  tôi yêu tài Âm nhạc của ông, một loại nhạc rất buồn, rất sâu sắc,với những lời lẽ cao siêu, đầy vẻ Triết lý về đời sống mà suốt Lịch sử Âm nhạc VN chưa thấy bao giờ …Đặc biệt nhạc TCS khá nhiều trên 500 bản, nhưng không trùng ý với nhau ( nhạc Ngô Thụy Miên trùng ý và lời nhau rất nhiều đến độ người nghe hay lầm từ bài này sang bài kia) và mỗi bài mỗi vẻ, bài nào cũng hay, khác với các Nhạc sĩ khác tôi chỉ thích vài bài cho mỗi người mà thôi, hoặc chả thích bài nào …Nhưng sau này tôi thấy trong sinh hoạt âm nhạc của TCS có những bài nhạc phản chiến làm xuống tinh thần quân dân miền Nam đang vất vả chiến đấu để giành từng tấc đất với CS mỗi phút giây, và chính bản thân ông cũng có những hoạt động chính trị với nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha(em rể hụt của ông, bị động viên vào lính, cấp Thiếu úy, nhưng vẫn hoạt động CS nên bị mất tích, chắc có lý do ), Nguyễn Đắc Xuân (tên đồ-tể Mậu thân)…ngoài Huế thì tôi bắt đầu nghi ngờ về lập trường của người Nhạc sĩ nổi tiếng này …Bản chất của tôi là thích sự Công bằng nên chả bao giờ biết nịnh bợ bất cứ ai, kể cả nịnh đầm (nên ít được lòng chị em là vậy)…và rất thẳng-thắn trong việc nhận định giá trị mọi vấn đề, nhất là khi tôi bắt đầu cầm bút, một cái nghề (cái “nghiệp” thì đúng hơn) mà cụ Phan Bội Châu gọi là “Công danh tối hạ thị Văn chương”(Trong công danh Văn chương là thấp nhất) …và như chính nhà Văn nữ khét tiếng của Pháp khi chỉ mới 17 tuổi là F. Sagan cũng đã viết “Viết lách là chọn con đường cô đơn..” nhưng riêng tôi, thì đó là cách “làm dâu trăm họ” nên chiều ai, bỏ ai là điều khó vô cùng, vì thế tôi chỉ có một cách duy nhất để làm việc là tôi nghe theo lương tâm của chính tôi thôi, hy vọng nó ít phụ tôi nhấtCho nên, cái gì được thì tôi nói được, cái gì không được thì tôi nói không được, thế thôi, như thơ Phùng Quán: “Yêu ai thì bảo rằng yêu / Ghét ai thì bảo rằng ghét / Dù ai ngon ngọt  nuông chiều / Cũng không nói yêu thành ghét / Dù ai cầm dao dọa giết / Cũng không nói ghét thành yêu” …
Vì thế, khi TCS mất, tôi có viết một bài tưởng niệm vì ông là Nhạc sĩ lớn của miền Nam , và là người tôi từng ái mộ, cũng là người tôi có vài chê trách thuộc về tư cách nhiều hơn . Bài có 2 phần: phần đầu tôi nói về cảm tình riêng của tôi đối với ông như sau, đại khái rằng :“TCS là Thiên tài Âm nhạc VN trong hậu bán thế kỷ 20, chưa từng có trước và sau đó…” và phần 2 nói về những điều TCS sai lầm về chính trị đã gây không biết bao nhiêu tai ương góp phần không nhỏ cho việc mất miền Nam như nhạc phản chiến, như trốn lính, nịnh bợ CS sau 75 …trong khi mọi thanh niên khác đều phải nhập ngũ chiến đấu gai lửa mỗi ngày trên khắp chiến trường miền Nam, với số người tử vong không phải là ít …Hồi đó mỗi địa phương đều có Nghĩa trang quân đội riêng, không kể Nghĩa trang Biên hòa cấp QG đồ sộ nhất, ngay cả Nghĩa trang Gò vấp mỗi lần tôi đi ngang qua thì thấy cờ vàng phủ rợp trời trên những ngôi mộ đất mới tinh còn đỏ khé, chả bao lâu miếng đất to đùng đã kín trong thời hạn rất ngắn thì biết chiến trường hồi đó ra sao ? Nhưng TCS đã tìm mọi cách để trốn lính, như việc ông từng kể sau 75 rằng ông đã nhịn ăn,và uống thuốc xổ để chỉ nặng dưới 35 kg sẽ hy vọng được chê( nhiều người khác nhỏ mủ xương rồng vào mắt phải, để cho mù không  ngắm được súng, hoặc chặt đứt ngón trỏ để không bóp cò… gọi chung là “tự hủy hoại thân thể”…cái này thì tôi cũng “thua” luôn như đi ám sát kiểu Văn Cao…). Ngoài ra, TCS đã dựa vào những thế lực mà ông có để trốn lính hầu tiếp tục phản chiến mà không ai làm gì được, khi ông chơi thân với ông Kỳ vì bà Kỳ là “fan” ruột của ông như bà từng khoe:  “Mỗi lần TCS có nhạc mới là vào Tân-sơn nhất hát cho tụi này nghe..” và khi Đại tá Lưu Kim-Cương bị VC bắn chết ở Lăng Cha Cả dịp Mậu thân…thì TCS đã viết bản “Cho một người nằm xuống” rất thiết tha …là do bà KL bồ với ông Tá Không quân này, nên TCS là người ăn dầm nằm dề nơi Câu-lạc-bộ Huỳnh-Hữu Bạc của Không quân trong TSN thì bố ai mà dám vô đây bắt TCS, kể cả ông Thiệu, khi hai ông này chả ưa gì nhau cứ hăm-he đảo chánh …Chính bản nhạc này, và bài “Gia tài của Mẹ” của TCS…trong đó có câu VC rất “căm” là: “Hai mươi năm nội chiến từng ngày …” đã làm cho VC nghi ngờ lập trường CM của anh nhạc sĩ “thân cộng” rõ ràng này, vì họ nghĩ TCS là “Gián điệp hai mang”, nên mới một mặt hoạt động CS, nhưng mặt kia vẫn ca ngợi “SQ VNCH” (Đại tá Cương) và nói sai quan điểm CM là “Chống Mỹ cứu nước” sao lại nói “Nội chiến”? Vì lẽ này TCS không được trọng dụng, mà còn bọn bị  trí thức, nghệ sĩ CS ngoài Trung lập toàn án Nhân dân ở Huế để “tố khổ” anh ta, may nhờ bạn bè trong đám Hoàng Phủ Ngọc Tường binh vực nên mới thoát nạn rồi ở miết SG không dám về Huế nữa …Tôi có nói rõ về phần 2 này: nếu TCS không trốn lính, không làm nhạc phản chiến làm giảm thiểu sức chiến đấu của binh lính VNCH ngoài mặt trận, như tiếng sáo Trương Lương ngày xưa, không CS nằm vùng… mà ông sẵn sàng nhập ngũ như bọn tôi thì có thể VNCH sẽ khác nếu mọi người đều chống Cộng như thế …chưa kể giới Nghệ sĩ miền Nam không thiếu gì kẻ phản chiến kiểu TCS,  nhưng nhẹ ký hơn  như: Nhạc sĩ Phạm Duy, Nhạc sĩ Miên Đức Thắng, Nhạc sĩ Tôn thất Lập,  nhà Văn Nguyễn Hiến Lê, nhà Văn Cung tích Biền, nhà Văn Ngụy Ngữ...  Lm Thanh Lãng, Lm Trương Bá Cần, Lm Nguyễn Ngọc Lan, Lm Lê Khắc Từ… Sư Thích Nhất Hạnh , Sư Thích Thiện Minh,  Sư Huỳnh Liên , Sư Thích Trí Quang, Sư Thích Đôn Hậu … Gsư Lý Chánh Trung, Gs Nguyễn Văn Trung, Gs Nguyễn Đăng Thục, Gs Dương Kỵ…Gsư Dương Tiềm, GSư Dương-Kỵ Ls Trương Đình Du, Ls Nguyễn Long, Ls Nguyễn Hữu Thọ,Ls Trịnh đình Thảo, bà Ls Ngô Bá Thành …Giới SV là đông đảo nhất: Sv Huỳnh tấn Mẫm, Sv Cao Quế Hương, Sv Lê Văn Nuôi, Sv Nguyễn Văn Thái,  Sv Cao Lợi,  Sv Tô thị Thủy, Sv Trần Triệu Luật (chết trong bưng) Sv Đào Hiếu lấy bút hiệu “Biên Hồ”, Sv Võ-Hợi lấy bút hiệu “Vũ Đức Sao Biển” (Nhạc sĩ) ngay trong lớp tôi chỉ hơn một tá SV nhưng đã có 2 tên vô bưng …hay trốn lính như nhà thơ Phạm Thiên Thư giả làm sư nhưng mê gái không thua gì ai, như nhà văn Nguyễn Nghiệp Nhượng  cũng vậy, như Vũ Hạnh, hay Hoạ sĩ Ớt (sau 75 hiện hình là Trung tá Công an VC) là những tay nằm vùng Văn nghệ vô cùng nguy hiểm …nhiều lắm kể không hết đâu …Thế nhưng khi bài báo của tôi đăng lên, thì mấy ngài “chống Cộng cực đoan ở đây  chửi bới tôi không tiếc lời, chửi tôi với lý luận rất đơn giản “NT ca ngợi thằng VC nằm vùng TCS, thì nó cũng nằm vùng Hải ngoại luôn”( đúng là “tam-đọan luận”rất dễ dãi) chỉ vi tôi nói TCS “Thiên tài” ?Người ta Thiên tài thì nói thiên tài chứ sao, cái bàn thì gọi nó là cái bàn, chứ anh có gọi nó là cái ghế được đâu?…Còn chuyện TCS dùng cái “tài” để làm gì thì đó là việc khác không dính gì tời Thiên tài cả, anh ta phải chịu trách nhiệm trước Lịch sử, trước đồng bào miền Nam về những gì anh ta đã làm, chứ không vì thế mà gọi  anh ta là  tên “bất tài vô tướng”…như tôi, hay như các ngài được …nhất là các ngài là những tên trốn lính như TCS trước đây, làm gì có tư cách chửi bới, chụp mũ những ai từng là cựu binh tác chiến của VNCH, nên tôi có làm hai câu thơ giễu như sau:  


“Sống với Cộng-sản bị nghi là CIA
Ở với Quốc-gia phải tha cái nón cối ….”

Vì vậy, có lần đài TV C 31 ở đây phỏng vấn  tôi về vấn đề “chụp mũ” trong CĐ Tỵ nạn, tôi chỉ cười mỉm nói rằng “Trong CĐ tỵ nạn VN mình mà ai không bị chụp mũ CS mới là điều lạ, nhất là những người có chút tiếng tăm hay thẳng thắn chuộng Công lý thì lại bị chụp nhiều nhất, nhưng đầu mình đội nón sắt hai lớp,bự, nặng… quen rồi, nón cối nhẹ hều, nhỏ xíu chụp không vô đâu nha, tin đi! Đồng hương ở  đây họ tinh lắm, tên nào sao họ biết hết, đừng lo!:”


Đúng là TCS bị CS “nghi oan” vì không phải ông ta ca ngợi “SQ VNCH”, mà vì muốn trả ơn “ân nhân” nhưng lỡ ông này làm Đại-tá mà thôi, người đã giúp mình trốn lính lâu dài như vậy, thì VC phải cảm ơn TCS sao lại nghi ngờ vì nhờ quen lớn vậy mới an toàn mà hoạt ông cho CS được, nếu không  ông phải vào lính thì bó tay ngay. Ngoài ra nội dung bài hát cho Đại tá Cương chỉ thuần triết lý về lẽ vô-thường của đời sống con người sống nay chết mai chứ không hề ca-ngợi gì chiến công của ông Tá cả, như câu: “Bầu trời nào anh đã bay qua, chỉ còn lại đây trăng sáng bao la…” khác với bài “Huyền sử ca một người mang tên Quốc” do Phạm Duy sáng tác là kể công người lính như câu: “Rồi anh bay lên đập vỡ bạo quyền…” dù bạo quyền đây là chỉ chế độ ông Diệm mà hẳn ông Duy không ưa …Còn chuyện “nội chiến” thì đúng rồi đâu có sai vì Mỹ đổ quân vào VN đầu tiên năm 1965 ở Đà nẵng sau khi VC đã vô miền Nam trước đó lâu rồi, từ khi Lê Duẩn ở Nam bộ giả vờ tập kết ra Bắc năm 54 cho hợp với Hiệp định Genève, che mắt mọi người…nhưng hắn ta  chỉ ngồi chung ghe ba-lá với vài tên cán bộ chạy vòng-vòng, giơ tay chào tạm biệt các đồng bào, đồng chí hẹn gặp lại 2 năm sau, nhưng rồi chúng lén tấp vô bờ, xong chui sâu vô bưng luôn, để tiếp tục đánh phá VNCH như báo chí VC sau 75 khai ra, coi như mánh khóe CM tuyệt chiêu để lường gạt VNCH lẫn quốc tế ngon ơ, nhờ vậy mới  thành công vĩ đại  năm 75 được… Ngay cái Nghĩa trang to lớn giữa lòng thành phố Qui-nhơn mà tôi từng có dịp ngang qua khoảng năm 1957 thấy hàng-hàng lớp-lớp mộ bia chôn ngay ngắn giữa có cái đài tưởng niệm khá cao ghi “Tổ quốc ghi công” (khác với “Tổ quốc ghi ơn” như VNCH), tôi có ghé vào xem mấy tấm bia thấy họ ghi tên tuổi liệt sĩ đàng hoàng, nhưng dưới thời VNCH sau này người ta bới lên thấy toàn là súng đạn bên dưới, không có cái xác nào cả, mới biết đây là ý định VC dự bị cho những cuộc nổi dậy ngày sau  này….Nghĩa trang bị QG san bằng làm cái sân Tennis, thì VC ngoài Bắc lên án VNCH  vi phạm Hiệp định Genève …Sở dĩ VNCH làm vậy, vì dân Qui nhơn thiếu gì người ghét CS nên họ khai ra với chính quyền QG, vì VC làm nghĩa trang này chỉ vào ban đêm mà thôi (vì sợ dân thấy như bản chất VC lâu nay, cái gì cũng làm ban đêm hết) và trong thời gian rất ngắn như người bà con tôi ở đó kể lại, để kịp xuống tàu Liên xô tập kết ra Bắc ở cảng Qui nhơn triển hạn 100 ngày …Năm 73 ký hiệp định Paris, Mỹ rút quân về hết, sao VC vẫn tấn công tới tấp VNCH đến năm 75, vậy thì “chống Mỹ” gì nữa , nếu không nói là “nội chiến”?..Từ 30/4/75 TCS đã lộ nguyên hình là tên CS nằm vùng thứ thiệt khi nhảy lên Đài phát thanh SG hát bài “Nối vòng tay lớn”, vội-vã tới mức không kịp mang theo đàn  mà vẫn hát…nhưng nặng tội hơn khi chửi người bỏ nước ra đi là “phản quốc” …không khác gì lão Phạm Văn Đồng trả lời Báo ngoại quốc về  người Vượt biên rằng :“Họ chỉ là những tên ma-cô đĩ điếm chạy theo đế quốc kiếm bơ thừa sữa cặn mà thôi” . Ở thời đầu từ 75, TCS được nhiều ân sủng khi Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng, ông này có người vợ bé tên Cầm, vốn người Huế du học Liên xô, rất mê nhạc TCS nên Kiệt “ăn theo” vì vậy rất dễ-dãi với TCS, sai người chở gạo tới gia đình TCS trong thời buổi dân Nam chỉ ăn bo-bo cầm hơi …và cấp cho TCS căn biệt thự ở đường Duy Tân sang trọng nhất Sài gòn… Từ chỗ quen lớn này TCS bắt đầu xa cách với anh em …Có người kể trên báo rằng anh ta có đến nhà TCS chơi thấy tấm hình chụp TCS và Kiệt “câu cổ” nhau, cười toe-toét được phóng lớn to bằng người thực để nơi phòng khách nhà TCS!!??…Không biết đúng hay không, dù tôi có được xem tấm hình này rồi hai người gắn bó nhau như bạn tâm giao …Nói thực, khi biết vậy thì tôi rất bàng hoàng bởi vì sao TCS lại hành động tệ như vậy, ông đâu phải cần làm cái trò “nhát khỉ” này qua một người tiếng tăm đầy quyền lực như ông Kiệt ? Đồng ý có thể đó là tình cảm thực với nhau, không ai cấm TCS mến ông Kiệt đến vậy và ngược lại, nếu vậy thì hình chỉ nên để trong phòng riêng của mình mà thôi, sao lại phóng lớn đem chưng ở phòng khách ?Chính vì chỗ quen lớn này, nên lão Kiệt khi thấy các bậc trí thức miền Nam vượt biên khá nhiều, trong đó có vụ vượt biên nổi tiếng bị bắt lại, rồi bị tù của Gs Châu-Tâm-Luân chủ bút báo Bách khoa khét tiếng SG, thì Kiệt bảo TCS viết bài nhạc để giữ “chất xám” lại, TCS làm ngay với bài “Em còn nhớ hay em đã quên?. hoàn toàn “mị” dân…với những câu nghe rất xạo xự: “Em ra đi nơi này vẫn thế…vẫn sống thiết tha, vẫn lấp lánh hoa trên đường đi …” làm gì có “sống thiết tha”(ngoại trừ ông được CS ưu ái, chứ dân ai cũng muốn zọt hết) nhất là thập niên 80 là lúc dân miền Nam vượt  biên nhiều nhất vì đã “thấm đòn CS” thành phố Sài gòn làm gì đẹp đẽ như vậy, khi toàn ăn bo-bo, toàn lê-lếch Chợ trời, chân dép nhựa áo bà-ba gạt nhau kiếm bạc cắc qua ngày …làm sao mà vẫn sống “thiết tha” như ông được hả…? Hay “Có hàng xóm đôi khi ghé thăm”  … thời này có ai dám tới ai đâu, ai cũng nghi ngờ nhau, tình lân-tuất coi như đã hết , ngoại trừ Xóm trưởng ưa tới để kêu đi đào mương, hay Công-an  khu-vực đến để coi ai ở lậu thì bắt rồi vòi tiền …TCS chỉ nói một điều đúng thôi: “Dưới hiên nhà, nước dâng tràn, phố bỗng là dòng sông uốn quanh  …” điều này thì trước 75 không hề có …nhưng sau 75 thì người ta có thể giành nhau bắt cá sau những cơn mưa trên phố SG.… Rồi TCS sáng tác những bài hô hào Thanh niên Xung phong đi thành lập những khu “Kinh tế mới”  để lưu đày những gia đình “Ngụy” khi chúng đã bắt chồng con họ nhốt lao-cải ngoài Bắc như bài “Em ở Công trường, em ra biên giới” gì đó, thì quả tình TCS can tội ác đồng lõa diệt cho kỳ hết những “Tàng dư Mỹ-Ngụy” (tàng: không thấy, dư: còn lại …) ……
Nhưng, theo tôi,  trong TCS vẫn còn chút lương tri nhỏ bé nào đó, hay bất mãn vì bị bạc đãi so với công khuyển mã của mình với CS nên ông ta đã biết dừng lại, thay vì ăn-năn hối cải chống lại chế độ CS, như ông từng chống VNCH trước đây, thì ông chỉ ẩn mình trong thuốc lá, rượu chè hà-rầm đến độ gia đình ông phải cấm bạn bè rủ TCS đi uống rượu, rồi ông ngưng sáng tác luôn khi báo phỏng vấn ông thì ông trả lới rằng “Trong suốt hai 20 năm tôi chả sáng tác được bài nào mới là việc lạ” chứng tỏ ông đã chán chường lên tận đỉnh về xã hội mà ông từng mơ tưởng và bồi đắp này …Có một số bản nhạc lời lẽ và âm điệu rất chán chê, mệt mỏi, hết xíu-quách … không biết ông làm từ lúc nào nhưng biết chắc là khoảng cuối đời ông như bài “Ở trọ”(sống trên đất nước mình mà như ở đậu) nhất là bài “Tiến thoái lưỡng nan” rõ nhất, nhạc  thê thảm, vì những lời nhạc ủ-ê thất vọng “Tiến thóai lưỡng nan đi về lận đận …” thì rõ ràng ông là người không có nơi nào dung thân nữa, bởi vì với CS coi như chúng nó bỏ ông, không tin, không xài ông, lạng quạng nó nhốt ngay … còn bạn bè thân tình ai mà dám chơi với người phản trắc như ông, dân QG dù trong nước hay Hải ngoại chửi không tiếc lời đúng là “lận đận” đúng là “lưỡng nan”: lui không được tiến không xong …vò võ một mình cho tới ngày xuôi tay…



Và, điều cuối cùng: tôi có chút băn-khoăn dù rất mê nhạc TCS nhưng tình cờ tôi có nghe một bài nhạc tên “Rừng thương biển nhớ” của một nhạc sĩ lão thành sinh năm 1923 (TCS sinh năm 1939)cũng là người Huế rất nổi tiếng ở miền Nam là Châu-Kỳ, (chắc cùng lứa với mấy nhạc sĩ Tiền chiến thời Âm nhạc VN theo Tây phương mới bắt đầu như Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Đoàn Chuẩn) …là chồng của Ca sĩ Mộc Lan (cùng lứa với Tâm Vấn, Kim Tước …Minh Trang) hay hát trên đài Pháp Á thì biết họ “xưa” đến ngần nào …Thời xưa này cặp song ca ăn khách nhất là Ngọc Cẩm/ Nguyễn Hữu Thiết đã trình bày nhạc phẩm “Rừng thương biển nhớ” này rồi, chứng tỏ bài nhạc này xuất bản đã lâu…Bài này có mấy câu trùng với bài “Biển nhớ” của TCS sáng tác khoảng năm năm 62 trở đi vì lúc này ông đang học trường Sư Phạm tiểu học ở Qui nhơn , là thành phố Biển …Những câu trong bài “Rừng thương biển nhớ” của Châu-Kỳ là:  “Từ ngày anh ra đi, biển nhớ tên anh gọi về …gọi anh qua mấy sơn khê…”   còn trong bài “Biển nhớ” của TCS là “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về ….Trời cao níu bước sơn-khê…”   thì chúng ta phải giựt mình ngay . Tôi có tra cứu hai bản nhạc này để tìm thực hư, nhưng không thấy năm viết hay năm in tác phẩm…thành ra chỉ chiếu theo tuổi của 2 Tác giả trước tiên thì TCS nhỏ hơn Châu Kỳ tới 16t (1923 và 1939) và bản nhạc của Châu Kỳ  do cặp song ca “Lão thành”  Ngọc-Cẩm /Nguyễn Hữu Thiết… hát  thì hẳn phải được phát hành trước đó nữa mới được thu-âm …còn bài “Biển nhớ” cùng lúc với bài “Nhìn những mùa Thu đi” của TCS sáng tác năm ông  học Sư phạm Qui nhơn do Khánh Ly hát thì thuộc thế hệ trẻ sau Ngọc Cẩm rất nhiều …  Vả lại, tên bài hát cũng na-ná như nhau “Rừng thương biển nhớ” và “Biển nhớ” thì chúng ta có thể thấy sự liên hệ giữa hai bài hát này rất gần gũi …khiến cho tôi thực sự ngỡ ngàng . Chưa kể có lần tôi được nghe nhà phê bình Văn học Nguyễn Hưng Quốc nói rằng “TCS nợ Bùi Giáng về Thơ không biết ông ấy biết điều này hay không?” thì tôi chợt nhớ tới câu Thơ Bùi Giáng trong bài “Mắt buồn”có câu giống y với “lyrics” nhạc TCS mà tôi không nhớ tên bài hát, là câu: “Còn hai con  mắt khóc người một con”  và hai chữ “Cố quận” Bùi Giáng rất ưa xài, mà không nhà Thơ nào có cả , cũng thường có trong nhạc TCS…Nếu trích của người khác thì nên ghi xuất xứ, hoặc chí ít phải đóng trong ngoặc kép… Về từ ngữ trùng nhau là việc thường nhưng trùng câu thì chưa thấy, ngoại trừ sự cố ý, hay vô thức mà thôi, bởi vì những câu hay, người ta ưa thuộc lòng nên nó trở thành vô thức, khi sáng tác nó tuôn ra Tác giả không hề hay biết …Được biết thuở sinh thời TCS và Bùi Giáng rất thân với nhau bởi nể vì tài, và rượu …mỗi bữa rượu TCS  đều mời Bùi Giáng và luôn dặn câu: “Ngồi yên mà uống, đừng quậy nha” thì Bùi Giáng rất ngoan ngồi yên bởi tính nhà Thơ này rượu vô là ưa múa tay chân… Bùi Giáng là dân Quảng Nam chính thống, từng chăn dê thờiVM …và rất ghét CS, nên năm 75 ông dắt bầy chó nhiều con mà mỗi con ông dán tên của mấy lãnh tụ miền Bắc khiến Công an đánh ông cũng nhiều vì nghi ông điên giả chửi chế độ…Người ta kể có lần nghe Bùi Giáng nói giọng Quảng rặc, khi giải thích 3 chữ “TCS” rằng: “TCS  nghĩa lòa thèng cận soản ..”(chữ TCS nghĩa là ba chữ viết tắt của“thằng cộng-sản”) ám chỉ TCS “nằm vùng” ai nghe cũng tức cười vì chả hiểu gì hết với cái giọng đặc biệt ấy dù ông xa xứ bao lâu vẫn để nguyên giọng Quảng mà không bị lai chút nào …Không phải lúc nào ông cũng điên mà điên có cơn … 
  
                                

 Tôi rất tiếc cho một người có tài như TCS, mà chọn sai lý tưởng, có lẽ ông mê CS qua sách vở mà thôi, vì ông vốn dân trường Tây mà, làm sao không đọc Jean  Paul Sartre, Albert Camus, André Gide và Bertrand Russell …những nhà Văn kiêm Triết gia  khét tiếng của nước Pháp này (3 ông đầu) đều được giải Nobel và ông Toán gia nước Anh (người chót) hầu hết là đảng viên CS, hay ít nhất là thân Cộng ở Châu Âu… Họ đã chung lưng lập “Toà án quốc tế” để xét tội gây chiến tranh của Mỹ ở VN, nhưng sau này họ đều ly-khai CS …khi André Gide đã du lịch Liên xô về viết cuốn “Le retour de L’Urss” (Chuyến trở về từ Liên xô) thì đúng là Gide, và nhóm này vỡ mộng CS …mà TCS thì vẫn khư-khư tin vào giấc mơ đã lỗi thời của mình nên bị hớ chứ sao, thì đã muộn …?! Bởi vì một người nổi tiếng của Tiệp-khắc từng viết “Hai mươi tuổi anh không mê CS thì anh không có trái tim, nhưng 40 tuổi mà anh không bỏ CS thì anh không có cái đầu “, TCS thuộc loại thứ hai này mà thôi …nên phải “tiến thoái lưỡng nan” là vậy, nhưng nếu TCS “thoái” sớm mà rời “tiến” sau khi tiếp xúc thực (không qua sách vở) với  CS từ năm 75 trở đi…như tên Nguyễn-Đính SV Huế đã nằm vùng cùng nhóm với TCS rồi “nhảy núi” năm 68 Mậu thân được CS đưa ra Bắc ca ngợi như anh hùng, nhưng chỉ thời gian ngắn sau, tên này tỉnh ngộ  nên chúng nó “đì” như cái mê, đợi năm 75 trốn về quê Huế, rồi làm Thơ chửi CS không tiếc lời qua bút danh cũ là “Trần Vàng Sao” mà câu ớn nhất tôi nhớ đại khái  là: “Xứ gì  không có cứt mà ăn…” Tên này, đã lấy con gái của một SQ VNCH …và đổi hướng 180 độ, coi như chuộc tội với miền Nam phần nào…thì  so với TCS  tên nằm vùng này khá hơn nhiều, dũng cảm hơn nhiều, nếu TCS làm được vậy thì đời của ông có lẽ sẽ nhẹ nhàng hơn , tiếc thay!  Nhưng dù thế nào… thì tôi vẫn yêu những tình khúc của TCS, vì tôi không thể nói khác hơn… “That’s it!”. Còn lại là trách nhiệm của ông ấy đối với Lịch sử, với người miền Nam …Và, tôi cũng có làm bài thơ trách ông qua bài nhạc “Đêm thấy ta là thác đổ” mà ông đã sáng tác trước 75 trong đó có lời nhạc rất oái-oăm khi ông đang hưởng Tự do thoải-mái: “Ngồi ca hát rất tự-do” lại đi ngầm hoạt động chống nó để rước họa vào thân và cho cả nửa nước VN yêu dấu mà ông và gia đình ông đang sống sung túc: 



 CẢM-ĐỀ:

“ĐÊM THẤY TA LÀ THÁC ĐỔ”



“Ngồi ca,

 hát rất tự-do …”



Sao,
còn không chịu, 
lại lo ngụy-hòa ?


Thảo nào,
thác đổ sau nhà…


Cuốn phăng nửa nước,
 trôi ra… dặm nghìn ?!


 *Nguyễn-Tư