MỘT THOÁNG... XIN ĂN
Có lẽ, mọi người đều đồng tình rằng hình ảnh người ăn xin là một minh
chứng sống động cho sự kém phát triển, kém văn minh. Ở Việt Nam, hình
như chỉ có một thành phố tại miền Trung là triệt tiêu được hoàn toàn vấn
nạn ăn xin, trong khi các đô thị lớn như TPHCM cũng... bó tay. Nhưng
tôi lại nghĩ rằng có khi nào dân ta đã quá khắt khe với người ta không,
vì đi đâu tôi cũng thấy người ăn xin mà.
Có
nhiều lý do và nhiều cách thức để... xin ăn. Ở nhiều nước trên thế
giới, khái niệm “ăn xin” và “vô gia cư” là một. Nhưng cũng có khi người
ăn xin vẫn có một chốn đi về, còn người vô gia cư thì không ăn xin. Và
đâu phải cứ hễ nước nghèo mới có người ăn xin hay vô gia cư. Họ vẫn nhan
nhản ở các quốc gia phát triển đấy thôi.
Hình thức ăn xin dễ thấy nhất ở các nước phát triển là “ăn xin nghệ thuật”.
Người ăn xin đổ sức ra đánh trống, chơi nhạc, ca hát, hóa trang thành
tượng để dọa cho người ta vui, để mời gọi người ta chụp ảnh với mình. Họ
thu hút những ánh mắt hiếu kỳ trên phố. Một ngày của họ cũng như bất cứ
người lao động thực thụ nào khác. Không những chăm chỉ, họ còn phải
sáng tạo để đỡ nhàm chán và nhiều khi không tránh khỏi việc cạnh tranh
với các “đồng nghiệp”.
Tôi
đã từng thấy một “pho tượng” bạc ở đồi Montmartre cụp mắt xuống buồn xo
và cả lườm nguýt “pho tượng” vàng gần đó vì du khách cứ xúm xít quanh
“pho tượng” này. Tôi vẫn nhớ hình ảnh một thanh niên có mái tóc nâu xoăn
ngồi chơi trống với gương mặt rầu rầu mà thánh thiện gần chợ Quý Bà
(Hồng Kông). Người nghệ sĩ bất đắc dĩ dường như cũng cảm nhận tiếng
trống của mình lạc điệu ở không gian đầy ánh đèn và người mua kẻ bán.
Ngoài “ăn xin nghệ thuật” thì “ăn xin giùm thú nuôi” cũng
là một cách mưu sinh hợp lý. Con thú thường không biết lao động nhưng
chúng cũng cần ăn uống, thuốc thang như con người. Thế là người ăn xin
“sắm” một con thú ngồi cùng mình (thường là chó, vì mèo thì nhỏ quá còn
sư tử thì bất khả), treo một tấm biển xin xỏ lên cổ hoặc để phía trước
con vật.
Tôi
luôn tin rằng cái tình giữa người ăn xin và con vật là thành thật, nếu
không vật chẳng chịu thương chịu khó cùng người như thế. Một tối mùa
đông, phố xá Melbourne vắng hoe. Tôi không khỏi xúc động khi thấy một
phụ nữ nghỉ đêm dưới mái hiên của một cửa hiệu đóng cửa. Bên cạnh chị là
chú chó màu xám to lớn nằm ngoan ngoãn như một em bé. Chị vuốt ve đầu
chú chó, kéo chăn lên tận cổ nó. Con vật rúc sát vào cánh tay chủ nhân.
Giấc ngủ của họ hẳn bình an lắm, vì không ai cô độc.
Tôi cũng chẳng thể nào quên những “đoàn” hành khất trẻ em ở các nước Đông Nam Á lục địa, đặc biệt là Campuchia và Myanmar. Khi
tôi vừa cho đứa này thì đứa kia xuất hiện. Chúng chắp tay, mắt to tròn,
lông mi dày cong vút, da đen nhẻm, áo quần lem luốc. Độc đáo hơn, chúng
kiên nhẫn theo tôi qua sông, lên đồi hoặc băng qua những đoạn đường
đông đúc cho đến khi nhận được sự hồi đáp. Thế mà, có lần, một người dân
bản địa ở Yangon thẳng thừng nói với tôi: “Làm ơn đừng cho tiền chúng nữa. Tôi không muốn trong tương lai nước tôi nhiều ăn xin hơn trí thức!”. Tôi giật mình xin lỗi, rồi cũng chẳng thể sửa cái tật dễ mềm lòng của mình.
Và có lẽ, kiểu “ăn xin mà chẳng xin ăn” của người Nhật gây
ấn tượng mạnh mẽ hơn cả với tôi. Một người bạn Nhật của tôi bảo rằng
đừng gọi người ăn xin ở Nhật là ăn xin, hãy gọi họ là “lãng nhân”. Với
một dân tộc mà tính chăm chỉ và lòng tự trọng đã ăn sâu vào máu thịt thì
ăn xin là việc chẳng đặng đừng. Lãng nhân thường là người thất chí,
người phá sản, nói chung là bất mãn cuộc đời.
Đi
qua công viên xanh tốt đối diện hoàng cư (người Nhật gọi là “hoàng cư”
chứ không phải là “hoàng cung”, vì Nhật hoàng vẫn còn ở đấy), ta sẽ thấy
những lãng nhân nằm dưới các gốc tùng bonsai trị giá hàng chục ngàn đô
la Mỹ. Chân bắt chéo, tay đặt trên ngực, ăn vận tươm tất và ấm áp, họ
lặng lẽ thong dong ngửa mặt nếm trải mây trời. Như một cách cự tuyệt sự
tàn nhẫn của thế sự, của thời gian. Họ không chìa tay ra trước mặt ai.
Khi đói, họ sẽ đến các nhà hàng sushi và tìm trong túi rác những hộp
thức ăn được đóng gói cẩn thận, sạch sẽ.
Các
nhà hàng Nhật luôn khắt khe trong việc giữ thực phẩm tươi ngon. Nếu
không bán hết bữa trưa, họ sẽ cho thức ăn thừa vào túi rác. Biết hoàn
cảnh của các lãng nhân, người bỏ rác sẽ ý tứ để các hộp thức ăn này vào
một túi riêng. Của cho không bằng cách cho là vậy. Khi biết được điều
này, trái tim tôi thổn thức vì một hành vi nhân bản thầm lặng và đều đặn
mỗi ngày ở xứ sở mặt trời. Tôi đồ rằng, ở Nhật, người xin có lẽ thuộc
hàng sang chảnh nhất thế giới, còn người cho có tấm lòng Bồ Tát hơn tất
thảy.
Tôi
hiểu rằng ngoài đói nghèo thì trên đời này còn biết bao tình huống,
cảnh ngộ đẩy người ta đến nước xin ăn: vì tàn tật, vì chiến tranh, vì
chân ướt chân ráo nhập cư, vì bị cưỡng ép lao động, vì sợ hãi lao
động... Còn nói theo tên một vở hài kịch của người Việt - Thà ăn mày hơn
ăn cướp - “nghề” ăn xin dù sao cũng lương thiện chán so với kẻ cướp
giật, lọc lừa.
Hình
ảnh người ăn xin, ở một phương diện khác, lại nhắc nhở cho ta cách biểu
hiện lòng thương, niềm cảm thông của con người với cuộc đời. Có lẽ, văn
nhân có cơ hội bộc lộ trực tiếp niềm thương với thành phần đặc biệt này
của xã hội hơn cả.
Thuở
xưa, Nguyễn Du, trên đường đi sứ sang Trung Quốc, vì cám cảnh cho bốn
mẹ con người ăn xin “lê la trên đường nọ” mà làm bài Sở kiến hành. Sang
đầu thế kỷ 20, trên đà phát triển rầm rộ của đô thị, giữa không khí “mưa
Âu gió Á”, nhà văn Trần Quang Nghiệp khiến chúng ta xót thương cho ông
lão ăn xin đói khổ và mộng mơ trong Ăn mày trúng số. Cảm thức đô thị của
Vũ Trọng Phụng cũng không thể nào thiếu hình ảnh người ăn xin.
Một
trong những truyện ngắn đầu tay của ông phơi bày cảnh ngộ hết sức thê
thảm của người ăn xin là Một cái chết. Ông còn chọn cái tựa Tết ăn mày
để nói về phận người nhỏ nhoi, cùng khổ trong một truyện ngắn khác.
Trong nhiều tác phẩm văn chương nghệ thuật, nhân vật hóa trang thành ăn
xin để dễ dàng tìm hiểu dân tình hay trà trộn vào lòng địch. Người hát
rong Homère đã cho chàng Ulysse trí xảo cải dạng hành khất sau hai mươi
năm xa cách quê nhà để xác tín lòng chung thủy của Penelope - vợ chàng.
Riêng
với ông vua kiếm hiệp Kim Dung, Cái Bang là “đệ nhất bang”, có tôn chỉ
hoạt động và trường phái võ công hẳn hòi. Ở nhiều câu chuyện đời xưa,
thần tiên hay ẩn thân trong vỏ bọc ăn xin, chủ yếu để thử thang độ yêu
thương của nhân gian và thưởng phạt tương xứng.
Tôi
từng đọc những giai thoại nói về sự giàu có ngầm của người ăn xin. Tại
Ấn Độ, có một “tầng lớp” ăn xin giàu đến mức có thể mua được hàng loạt
căn hộ cao cấp và cho vay nặng lãi. Tư liệu về người ăn xin hẳn còn
phong phú lắm, đủ để thấy cái-nghề-không-phải-là-nghề này thực sự là một
hiện trạng đa đoan của đời sống xã hội.
Đương
nhiên, tôi viết bài này không phải để bênh vực, khuyến khích hay đả
kích việc xin ăn. Chỉ đơn giản là ghi chép những điều mình trông thấy.
Chỉ để thấu cảm rằng bất cứ hình thức sinh tồn nào cũng hội tụ nhiều yếu
tố lịch sử, giáo dục, văn hóa, thể chế xã hội, tâm lý con người... Tôi
chỉ chắc chắn một điều rằng, chừng nào cuộc đời vẫn còn nỗi cay đắng và
nhân loại vẫn còn lòng trắc ẩn, chừng ấy vẫn còn người ăn xin.