NẮNG HỒNG
*“Nắng có hồng bằng đôi môi em ?”(TCS)
*Tùy bút Nguyễn-Tư
Mùa
thu đã về trên những ngọn cây sao trong công viên thành phố . Lá vàng,
biểu lộ cho sự tàn phai mất-mát, cuối cùng. Những sợi nắng lao-xao trên
những bờ tường cũng màu vàng, loang-lổ những tấm bích-chương rách nát
dán chồng lên nhau làm rõ nét một ý-niệm về thời-gian: Hôm qua , bây giờ
và ngày mai… Tất cả đều hiện lên trên một khoảng tường gạch rong-rêu,
cuộc đời trải ra ở đó, mà ít ai quan-tâm tới. Người ta vẫn thản-nhiên
sống , thản-nhiên thở, thản-nhiên nói cười… Như làn gió thản-nhiên thổi
lập-lờ qua ngọn cây sao… Từng mảnh lá vàng thủng nhiều lỗ bay-bay… cuốn
trên mặt lộ. Tôi đứng cạnh một công-viên nói chuyện với một người bạn về
giờ giấc ở đây và sự trễ-tràng của những thói quen bắt nguồn từ một
quan-niệm sống nhiều hơn là những con số ghi trên giấy tờ.Trời hơi lạnh.
Nắng hồng. Người bạn chợt cười nói với tôi trong nỗi reo vui:
-Kìa , tới kìa.
-Ừa , khác.
Chiếc áo màu hồng nhạt, sọc trắng, jupe ngắn cùng màu, nụ cười tươi như hoa, tung- tăng với đôi chân chim như một thời quên lãng sương mù ở năm mới vừa 20 tuổi. Dốc Bùi -Thị-Xuân áo ấm xanh da trời ôm cặp che nghiêng nửa mặt:
-Tới đây bao giờ?
-Sớm! Định về vì thấy chẳng có ai!
-Trời! Sao vậy?
-Ừa, đẹp .
-Thôi mà!
-Trẻ thơ.
-“Thơ” gì nữa!
-Mignone.
-Tội em mà!
-Thật.!
Giá-Băng mỉm cười, cúi xuống lặng thinh, đôi tay nắm chặt chiếc xắc tay buông lỏng. Đôi mắt long-lanh rồi cười lặng-lẽ. Nắng hồng reo vui. Sợi tóc bay-bay thần-thoại. Hàm răng thực đều, đôi mắt có đuôi, ngước lên cúi xuống - cười bâng-quơ…Tất cả đều hồng kể cả nỗi lòng của sáng hôm nay. Tôi nghĩ thế. Xe chạy gập-ghềnh qua những khu rừng quanh co giống con đường đèo xuyên Việt.Nhớ thực nhiều những đêm trăng dải trên đỉnh Cù-Mông, gối ba-lô nhìn trời, cây súng M16 gác ngang nơi ngực,phập-phồng theo nhịp nhảy của con tim, nghêu-ngao hát rằng:
“Vua Lê dắt lính vô trung
Anh theo Chúa Nguyễn vượt Cù-Mông anh qua đèo…”
………………………………………………………
“ Đèo núi cao trong gió vi-vu …”
Mối
tình đẹp như Thơ cửa người con gái út vua Lê-Hiển-Tôn với người
anh-hùng áo vải Quang-Trung nơi quê Ngoại tôi trong trí nhớ xa mù…Tiếng
trống Tây-Sơn đâu phải chỉ mở hội cho một cõi biên-thùy, mà cũng gieo
vào lòng một người để làm nên giấc mơ 16…Xe chạy vào khu nuôi sư-tử…Loại
chúa Sơn-lâm tượng-trưng cho quyền lực châu Âu, trong lúc người
Đông-phương lại muốn ám-chỉ một loại đàn bà với đầy đủ nét xấu-xa của
nó: “Sư-tử Hà-Đông !’.
Khu sở thú này dành cho những người thừa tiền của không biết làm gì cho
hết,nên đến đây để mua cảm-giác mạnh, bằng cách ngồi trong xe nhìn chúa
Sơn-lâm qua làn cửa kính. Không hiểu người nghĩ ra cái trò chơi này để
lấy 5$ , hay để cho người khách kia có dịp tiêu-pha tiền bạc dư thừa? Có
lẽ cả 2. Đời sống của người châu Âu chỉ có thế, chỉ bao quanh những bơ
sữa và những kiểu áo quần thực hấp-dẫn được trình bày trên những đường
cong nẩy lửa của những models không ngại cởi truồng mà hình như ngày
nào, ở giây phút nào người ta cũng thấy trên TV đến độ những nhà
hoạt-động cho “Phụ-nữ quyền” phải lên tiếng trong một xã-hội chỉ chú ý tới “ăn” và “mặc” chứ ít khi nào thấy chương-trình về Văn chương, Nghệ-thuật, ngoài những phim ảnh cổ-xúy bạo-động, hễ mở mắt ra là thấy “bóp cò”
máu-me vương-vãi …Nói tóm, họ chỉ chú trọng tới việc làm thế nào để
kích-thích tối-đa những rung-động loạn-xạ của những bộ dây thần-kinh
căng thẳng, nóng bỏng …mà lúc nào chúng cũng chờ đợi kích-thích. Càng
kích-thích càng tốt, bằng mọi cách, mọi kiểu. Những sợi thần kinh
chằng-chịt như vậy mà lại rất ít sợi dẫn qua con tim…?!
Nắng
lên cao. Khu Warragamba vẫn đông nghẹt những người, nằm rải-rác, trên
những ngọn đồi thấp. Từng dãy cây sao vàng chạch, đang thay lá, để chờ
Mùa Đông nảy lộc non, làm tôi nhớ những hàng cây bàng vào Thu ở
Nha-Trang .Những chiếc lá to,đỏ ối nằm đầy trên những lối đi dọc bờ
biển…
Đến
bữa ăn trưa, nhóm người VN quây-quần trên những tấm bạt nylon được trải
ra , với những thức ăn mà họ mang theo, ngoại trừ tôi là khách mời.
Tôi quỳ lên thảm cỏ, bới những hạt xôi trắng ngần, thơm dẻo, vào một
chiếc đĩa nhựa ăn ngon lành. Tôi có bao giờ được ăn những thứ này trong
nhiều năm rồi! Đôi khi có những chịu đựng tầm thường mà có bao giờ mình
nghĩ đến. Mùi mỡ hành, làm nhớ những buổi sáng quê nhà làm SV nghèo ở
Saigon ngủ muộn ra Ngã Sáu ngồi ở quán cóc kêu ly “xây-chừng” đặt trên chiếc ghế vuông thấp lè-tè trên mặt đất, và một gói xôi nhỏ, “khiêm-nhường”
trong chiếc lá chuối rách tả-tơi, cầm cái thìa nhôm nhỏ xíu quậy-quậy
vào ly café rồi dùng nó múc những muỗng xôi chậm rãi đưa vào mồm, vừa
nghĩ đến xấp Cours dày cộm ghi vội ở giảng-đường ĐHSP SG, bất-giác làm
tôi tự hỏi: sao lúc nào tôi cũng nghèo,cũng tả-tơi, cũng lạc-điệu giữa
những muôn ngàn đẩy xô, muôn ngàn ùa vỡ?...Tôi vẫn thấy tôi là kẻ ở
ngoài! Nắng vẫn hồng, và áo em cũng hồng, mà sao lòng tôi vẫn thấy màu
xám tro như màu mây trời lãng-đãng trong một ngày thời tiết xấu. Tôi mỉm
cười nhớ lại một đoạn văn nào đó, trong một tài-liệu bằng Anh-ngữ ngày
qua: “Nguyen Tu being a teacher, a soldier, an artist, a philosopher,
and a wanderer cannot forget his broken’s heart bits
left behind and scattered on the roads, the mountains, the rivers, the
hamlets of Vietnam. He gathered them in 2 selections of short stories
and poems: “GỞI NGƯỜI BÊN ẤY”(To you, who was left behind) and “DÁNG XƯA” (Those days Silhouette) published in Sydney in 1984 and 1985 respectively…” Mắt tôi đậu lại thực lâu ở chữ “a wanderer”. Ừa, đúng đó Giá-Băng! Còn dòng chữ “Broken’s heart bits” thì rõ-ràng, làm tôi nhớ đến cuốn sách em cho có tên “Hãy bay đi những cơn mưa phùn” của
một người khét tiếng viết, được em bọc lại bằng giấy tím, với dòng chữ
em ghi nơi trang đầu cuốn sách cũng bằng mưc tím nhắc về nụ cười nàng “Mona Lisa” của Loenard de Vinci…rằng “Em mỉm cười không phải để quyến rủ kẻ tình si, nhưng để che giấu một trái tim rách nát”như
một gởi trao cho người lận-đận – là tôi , dù cũng đã có lần nào đó em
nói em yêu câu thơ ngàn xưa mà Bạch-Cư-Dị đã viết cho người thương-nữ
Tầm-Dương vào một đêm trăng qua sông gặp người tri-ngộ đuợc diễn nôm bởi
Phan-Huy Vịnh, một kẻ sĩ VN cũng rất tài hoa :
“ Cùng một lứa bên trời lận đận…
…………………………………………….
…Tay ôm đàn, che nửa mặt hoa…”
(Tỳ Bà Hành)
Tôi
rời đám đông và trèo lên một sườn đồi gần đó nằm ngửa trên cỏ, dưới một
tàn cây đốt từng điếu thuốc . Tiếng trực-thăng đáp xuống và bay lên
ì-ầm liên-tục gần đó đưa những người khách hiếu-kỳ chịu bỏ ra 5$ để được
bay một vòng trên khu đồi chập chùng mây thấp, làm tôi nhớ những ngày
lửa đạn dồn-dập trên quê-hương mà trong đó có tôi là một người lính còn
quá trẻ, đứng cầm khẩu súng đầy bụi đỏ ở vùng Cao-nguyên, nhìn theo
chiếc trực-thăng tải xác trương sình đầy dòi bọ, vội-vã cất cánh lên
cao, dưới những tràng AK đuổi theo không ngớt… Tiếng cánh quạt
cành-cành, bụi mù, lá bay và mùi thối nồng-nặc của tử-thi làm tôi ói
thốc vào chiếc khăn tay nhà binh màu ô-liu choàng ngang qua mũi. Chiếc
nón sắt trên đầu, đè nặng lên tuổi trẻ tôi không bằng những nỗi xót-xa
khi nhìn đồng-đội ngã xuống lặng thinh, ngã xuống không rên la, không
thù hận…mà có người ví-von “nằm chết như mơ” …
Tôi
lấy chiếc mũ vải úp mặt lại, cố nhắm mắt một chút. Tôi thở mạnh, để
đuổi xô những quá-khứ kinh-hoàng mà thực lòng tôi không hề muốn nhớ. Tôi
muốn tôi có những hình ảnh đẹp hơn, dịu-dàng hơn, để cho tôi được sống
với phần đời còn lại. Tôi nghĩ tới Giá-Băng, Nắng Hồng và chiếc cầu treo
bắc ngang qua thung-lũng…lẩn trong câu chuyện thường bắt đầu 2 chữ “Ngày xưa” Tôi bước song-song với nàng, vẫn lặng thinh như nắng ấm buổi trưa, và chợt thoáng nghe giọng ngọt-ngào như lời tình tự :
-Em vẫn thích bức oil “Đường phượng bay” của anh quá chừng.!
-Sao rứa?
-Em nhớ …
-Nhớ cái gì?
-Thời đi học.
-Học sao?
-Học thầy.
-Thầy nào?
-Thầy dạy Triết.
-Triết làm “hổ ngươi” người
không biết Triết, phải không? Vì triết-học đã ảnh-hưởng từng giây phút
lên cuộc đời của họ mà họ không hề hay biết gì, thí dụ mình hay bỏ quên,
hay lỡ lời …qua cái hành động mà Tâm-lý học gọi là “hành-động lỡ”(Actes manqués) từ “Vô thức”
mà con người không thể kiểm sóat nổi theo quan-điểm của Freud (đọc là
“Froi”) về ngành Phân-tâm học - một khám phá cưc kỳ quan trọng của thế
kỷ 20 ! Hay nhãn-tiền nhất như sự lưu-xứ buồn tủi của tụi mình nơi đây,
là do Triết Marx, bắt nguồn từ cái biện-chứng 3 nhịp xa lắc của đại
triết-gia Đức Hegel là : đề(thèse)-> phản-đề(anti-thèse)->tổng
hợp-đề(synthèse) …Ban đầu nó chỉ được ứng-dụng trong phạm-trù thuần
Tư-tưởng, nhưng sau này Marx(Đức) và Engel (Anh) đã dựa vào đó để
áp-dụng vào xã-hội, nơi đó giai-cấp Công-nhân bị bóc lột thậm tệ sẽ vùng
lên chống lại bọn Tư-bản “ngồi mát ăn bát vàng”,
giàu có nhờ xương máu Công-nhân, nên từ đó Marx tiên-đóan chắc nịch
rằng: Những cuôc “CM vô-sản” sẽ xảy ra sớm nhất và dữ-dội ở 2 nước đại
Tư-bản thời bấy giờ là Mỹ và Anh. Nhưng trên thực tế những cuộc “CM Vô-sản” chỉ xảy ra đầu tiên do Lénine chủ xướng ở Nga năm 1917 , là một nước nông-nghiệp chưa hề có“người Công-nhân”
nào cả, và tiếp theo là những nước nghèo sặt máu như Tàu, VN, Băc
Triều tiên, Cuba ….mà chính Lénine gọi cái đám đông vô học và nghèo nàn
này bằng một từ ngữ rất khinh thị là “Masse ignorante”(khối ngu), vì “ngu”
nên rất dễ dụ khị … Trong lúc những nước Tư-bản từ lâu như Mỹ, Anh,
Pháp, Nhật Úc…đảng CS được cho hoạt-động tự do mà chả ai thèm theo,
chứng tỏ thuyết Marx đã sai ngay từ đầu .Trật lất rồi ông ơi! Đó là chưa
kể ý-niệm căn bản của thuyết này luôn phủ nhận quyền “Tư-hữu”
là điều trái với bản-năng con người, khi một nhóm trẻ tí -teo được thảy
cho một vốc kẹo, đứa nào cũng muốn giành giựt cho thực nhiều kẹo vào
mình, thì cái đó là gì nếu không phải lòng “tư hữu”
mà chả ai dạy chúng cả! Và, cho tôi được hỏi: Nếu như ông Marx thấy 2
đứa bé đang sắp chết đuối, 1 đứa là con của ông, và đứa kia là con hàng
xóm, thì ông sẽ nhảy xuống ao vớt đứa nào ?Nếu ông nói rằng ông sẽ vớt
thằng bé hàng xóm thì ông cho tôi xin được nghi-ngờ lòng tốt của ông, và
nếu ông làm thực mà bỏ cho con ông chết tốt, thì tôi sẽ quì lạy ông và
tôn ông làm Thánh …Và nếu ông nói ông sẽ cứu con ông thôi, thì tôi sẽ
mời ông đi uống café với tôi, vì ông thành thực sống bình thường với đầy
đủ bản chất con người đầy “tham lam sân hận” được dẫn dắt bởi lòng “tư-hữu” như một bản-năng tự nhiên, mà ông cố tình phản-bác trong học thuyết của ông ……
-Ừa há, rồi gì nữa?
-Và làm “khổ” người biết Triết-học, vì biết nhiều quá nhức đầu …..
-Ừa, nhưng em thích!
-Vì sao ?
-Không biết nữa, nhưng có lẽ vì nó sâu-sắc, nó “đụng” tới tư-tưởng con người!
-Đúng
như vậy, nó là môn nền tảng cho mọi suy luận, kể cả Chính trị hay
Khoa-học. ..mà em có thể từng thấy nó qua tên các Triết gia cổ-điển
nhan-nhản trong sách Toán bây giờ như Thales, Pythagore, Platon …người
từng viết một câu rất “hách”dựng ngay trước cửa nhà mình(sau này trở thành Academy): “Những ai không biết Toán, xin đừng bước vào cổng này”.
Và những đại Triết gia kiêm Toán gia lừng danh sau này như Descartes
của Pháp cực-kỳ Duy-lý, hay Bertrand Russell của nước Anh, một Triết gia
từng chống chiến tranh VN, kiêm Toán gia, kiêm nhà Văn từng được giải
Nobel Văn chương đã phán một câu làm ngẩn-ngơ bao kẻ học Toán:“Toán học là một môn học mà nơi đó người ta không biết nói về cái gì, và khi nói như thế không biết có đúng hay không?” chỉ để làm nổi bật tính cách thuần-lý(rationnelle) của môn học này, mà rất nhiều người sợ trong thời đi hoc …Nhưng thôi, “bỏ đi Tám!”,
em là phụ nữ, lại đẹp, bước vào thế giới này làm gì, nó làm thui chột
tâm hồn lãng mạn của em đi, bởi vì anh biết rằng phần lớn các Vĩ-nhân là
Triết gia và họ hay điên khùng vì suy-tư quá thể như Nietzsche chả hạn,
dù Triết lý họ đã làm đảo lộn tư-tưởng châu Âu….
-Bỏ không đành đó chứ, bởi có người nói: “Thà làm một Socrate bất-mãn, còn hơn làm một con heo toại nguyện” - nhớ chưa anh?
-Nhớ được những gì?
-Quên hết! Chỉ nhớ mỗi câu đó thôi!
-Ừa, khỏe?!
-Không
khỏe đâu nha, vì sợ hãi kinh-khiếp khi thấy cái đầu mình rỗng không, dù
cũng có người chưa học Triết bao giờ, hay giỏi lắm chỉ học Triết Đại
cương gọi là “khai-tâm” mà thôi ở lớp 12 trước đây thì đã ra điều xỉ vả bỉ thử này nọ…hẳn do “mặc-cảm khiếm-khuyết” khi tự thấy mình không đủ sức kham nổi vấn-đề giống như người nghèo mạt rệp mà lại ưa chửi “tiền”
- phải giàu cái đã thì mới đủ tư-cách miệt-thị tiền bạc,y chang như anh
chàng Ả Q. của Lỗ-Tấn tự thấy mình không đánh nổi thằng vô-lại thì bỏ
đi và tự an-ủi “Mày đánh ông thì cũng bằng như mày đánh Bố mày “ cho tiện việc sổ sách chứ cũng hậm-hực đầy mình, nhưng ai nói gì thì nói, sao em vẫn thích Tâm-lý-học quá!.
-Nhảm, bày đặt!
-“Hối-hận” và “ hối cải”ở đâu anh? Tâm-lý hở?
- Bá-xàm đi !Trí nhớ “phản động” rồi.!
Ừa, cái đầu hư rồi! Bơ sữa làm hư.
-Đừng đổ thừa! “Xe” và “nhà” làm hư.
-Ừa, cũng thế!
-Ở đâu anh?
-Ở bài “Ý thức đạo đức” - phần Morale, nói về triệu-chứng của Lương-tâm.
- “Chữ thầy trả cho thầy” hết trơn!
-Giữ lại cái gì?
- Không muốn nói…
- Xạo! Bữa nay trông em sao “nhỏ” vậy?
- “Lớn” bao giờ?
-Từ ngày biết giữ “cái gì đó” trong lòng?!
-Vậy hở? Thế thì “lớn” lâu rồi! Nhưng giờ muốn “nhỏ” lại chút-chút, như hôm nay, phải cho em một ngày để em thở bằng chính lồng ngực của em chứ - được không?
-Tạm-tạm được.
- Sao lại “tạm”?
-Vì không có cái gì “chắc” trên đời này hết như ông Xuân-Diệu từng viết “Sự thực ngày nay không thực đến ngày mai” mà, phải không ?
-Vậy cái “không chắc” là “chắc” phải không?
- Ừa, nhưng “cái không chắc là chắc” cũng “không chắc” luôn!
-Ừa hé! Khó ghê!
Và, nàng nhìn nghiêng qua tôi với đôi mắt đầy thán-phục, nói một cách vừa thực vừa giễu cợt:
-Ừa, cái đầu của “ bồ” em “ớn” quá!
-Vậy hở? Ai biết đâu! Thôi bỏ qua đi không thì “khổ” đó.
Giá-Băng giọng thách-thức:
-Bộ sợ “khổ” hở?
-Sợ cho anh thì ít, nhưng sợ cho em thì nhiều!Bởi trong anh sự khổ-hạnh đã “saturé” từ lâu rồi, mà trong Hóa-học người ta gọi là “dung-dịch bảo-hòa” giống như muối em bỏ vào nước lã, khi muối bắt đầu không tan thêm được nữa, thì nó chỉ chìm xuống đáy ly mà thôi…Giờ anh có “khổ” thêm cũng chả sao!
Nhưng
tôi vẫn muốn cho Giá-Băng, có một cái nhìn khác, dương-tính hơn về nỗi
khổ kiếp người, vì nàng là người phụ-nữ được Công-đồng tỵ-nạn VN nơi
đây, ưa gọi một cách thân-mật là “Người đẹp Sydney”
khi nàng chưa tới 30 tuổi, tuổi đẹp nhất của người đàn bà Á-châu - dù
hình như nàng cũng đã chạm mặt với nỗi buồn tủi về cuộc hôn-nhân không
do nàng lựa chọn …Nên tôi nói thêm:
-Em có nghĩ , đôi khi “khổ”cũng là một Hạnh-phúc hay không?Như “Tình yêu”
chả hạn, càng trầy-vi-tróc-vảy vì tình bao nhiêu, thì người ta lại xăm
mình lao vào tình yêu bấy nhiêu, có khi còn hơn thế nữa, chưa hề thấy ai
“tởn” tình yêu bao giờ cả, mà người ta vẫn dùng câu thành-ngữ dù có vẻ đùa cợt nhưng không sai mấy là “Yêu thì khổ, nhưng không yêu thì lỗ”, nói như TCS “Người ta không thể không yêu được”. Em đừng tưởng Lan và Điệp, một người cạo đầu vô Chùa rồi thì hết “yêu” nha, chỉ là sự tự lừa gạt trái tim chính mình mà thôi! Thấy Hạnh-phúc trong nỗi đau ,Tâm-lý học gọi là “Thú đau thương” – plaisir de douleur – đó em, nghe ra rất nghịch-lý trong một hạn-từ, trái với “Nguyên lý đồng nhất” trong Logique nha !?Ngay như trong Thơ tiền chiến cũng vậy, trong một “cặp đối-đãi”(couple de contraires) đáng lẽ nó sẽ cự-nự nhau tới bến như bản-chất , thì nó lại hẹn-hò nhau trong “cùng một trật”( à la fois) để tạo ra Hạnh-phúc mới kỳ-cục chứ, như: “Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé” hay “Tình chỉ đẹp những khi còn dang-dở”… có phải là “trái cựa”, là“paradoxe” khủng-khiếp không nè - một thứ “Masochisme” trong Phân-tâm học của Freud đó em?Dù trên đời này, em đừng tưởng chỉ có những tay “Sadisme” như Néron, buồn thì đốt thành La-mã rồi ngồi phán tỉnh queo “Ôi, cảnh cháy nhà sao mà đẹp vậy nhỉ ?”
hay như Lê-Long-Đỉnh nước mình có thú vui giải sầu là ưa tự róc mía
trên đầu trọc mấy ông Sư rồi giả vờ lỡ tay phập xuống cho tóe máu rồi
nhìn cười ha-hả khoái trá, thời đại này không thiếu những loại người “lấy làm khoái trên nỗi đau kẻ khác” kiểu này đâu nha …
- Nhưng em không tin như thế?
-Sao vậy?
Vì đó là căn bịnh của bọn “Bourgeois” Tây phương!?
-Nhưng,
đôi lúc đó cũng là Tâm-lý bình thường mà,dành cho trường-hợp của những
người chưa có kinh-nghiệm nhiều về Hạnh-Phúc, được định-nghĩa như một “khuynh-hướng được thỏa-mãn”
và họ nghĩ rằng họ không còn có cách gì để vươn lên nữa, nên họ trở nên
an-phận trong cái mà họ đang có một cách không muốn, gọi là “chịu đựng” mà phải đành lòng…thường thấy ở những người phụ-nữ Á-châu:
-Một cách tự lường gạt mình như anh đã nói lúc nãy, sao anh?
-Ừa, đúng ra là một cách thế tự-vệ tiêu-cực đối với đời sống.
-Nhưng đâu có tự lường gạt mình mãi đươc?
-Giống như một người say rượu, chỉ quên đời trong giây lát, rồi lại ê-chề sau đó nhiều hơn, nói như Nguyễn-Du:
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa”
-Ừa, thế mà họ vẫn lựa chọn cái “Hạnh-phúc khổ đau” đó.Tại sao?
-Vì họ nghĩ “Có cũng còn hơn không!” ,
bởi mọi người sinh ra là có quyền được Hạnh-Phúc. Họ là những kẻ bị
bạc-đãi nhất trên đời, xét theo một nghĩa nào đó…Em có thấy “tội” chưa?Có khác gì cái mệnh-đề 2 của câu tục-ngữ anh nói lúc nãy đâu: “Không yêu thì lỗ”!Nói như cụ Nguyễn-Công-Trứ ngày xưa cũng nằm trong ý-niệm nhân-sinh này, khi ông có nhắc đến chữ “lãi” và “thiệt” trong đó:
“Cuộc hành-lạc bao nhiêu là lãi đấy,
Nếu không chơi, thiệt ấy ai bù ?”
Giá-Băng mỉm cười với đôi mắt có chút long-lanh, im lặng trong giây lâu, rồi nói:
-Đó
là lý-do em muốn xin anh cơ-hội để cho em tự thở với chính lồng ngực
của mình, không gì bất-hạnh bằng mình phải thở với lồng ngực kẻ khác,
bởi vì em có riêng một cuộc đời như mọi người mà mình phải “tự sống với nó”, phải không anh, sao lại để kẻ khác sống giùm cho mình chứ ??Thế mà ….
@
Buổi
chiều tàn, đám người trở lại thành phố, và mỗi người suy nghĩ về đời
sống khác nhau. Những vạt nắng hồng đã cò nhiều hơi lạnh. Tôi đi bên
cạnh Giá-Băng, nàng nhìn nghiêng cười tình tứ. Tôi đứng lại, móc trong
túi áo một thỏi kẹo bạc-hà nhỏ, bỏ vào bàn tay Giá-Băng và nói:
“Hãy
ăn kẹo như trẻ thơ, đêm nay về ngủ yên-bình lãng quên đi mọi thứ đã xảy
ra trong ngày, kể cả những vạt nắng hồng lấp-lánh trên những ngọn cây
sao,đang mùa rụng lá. Và chỉ nên nhớ một điều: Quên được nhiều điều là
một Hạnh-phúc. Ngày mai có thể nắng không còn hồng và em cũng sẽ trở
lại lớn khôn như đã lớn khôn. Xin hãy quên đi một ngày được làm trẻ thơ
trong đời sống. Chiếc jupe ngắn màu hồng, đôi chân chim, câu chuyện học
trò và thỏi kẹo bạc-hà hôm qua, chỉ là giấc mơ yên-bình trong cơn
mộng-mị, đã đủ quá rồi, cho những giọt nước mắt phai nhanh..”
Thầy Nguyễn Tư Thiếp