HÃY THONG THẢ SỐNG
Nhiều
khi chúng ta
sống mà quên
bẵng đi là
mình có thể
chết bất cứ
lúc nào. Ta
hối hả sống,
vui, buồn,
khỏe, yếu, ta
cứ lướt qua
rồi không
ngoái đầu lại
nhìn chuỗi
ngày tháng ta
đã tiêu hao
của một đời
người.
Cho
đến khi có một
người bạn vừa
ngã bệnh, bệnh
nặng, không
biết sẽ mất đi
lúc nào, lúc
đó ta mới xa,
gần, hốt hoảng
gọi nhau.
Tưởng như chưa
từng có người
bạn nào “Chết”
bao giờ. Hay
ta có một
người thân
trong gia
đình, đang rất
khỏe vừa báo
tin bị bệnh
hiểm nghèo.
Gia đình, họ
hàng cuống
lên, sợ hãi
như chưa nghe
đến ai nói về
cái chết bao
giờ, chưa
chứng kiến
cảnh vào bệnh
viện, cảnh
tang ma bao
giờ. Cả
hai người trên
có thể đã
ngoài 70 tuổi.
Lạ thật! Cái
tuổi nếu có
chết thì cũng
đã sống khá
lâu trên đời
rồi, sao những
người chung
quanh còn
hoảng hốt thế.
Hóa ra người
ta, không ai
muốn nghe đến
chữ “Chết” dù
chữ đó đến với
mình hay với
người thân của
mình.
Hình như không ai để ý đến mỗi sáng chúng ta thức dậy, nhìn thấy mặt trời mọc (nếu còn để ý đến mặt trời mọc) là chúng ta đã tiêu dùng cái ngày hôm qua của đời sống mình. Có người vì công việc làm ăn, cả tuần mới có thời giờ ngửng mặt nhìn lên mặt trời. Buổi sáng còn tối đất đã hấp tấp ra đi, buổi chiều vội vã trở về lúc thành phố đã lên đèn, làm gì nhìn thấy mặt trời. Nhưng mặt trời vẫn nhìn thấy họ, vẫn đếm mỗi ngày trong đời họ. Họ tiêu mất cái vốn thời gian của mình lúc nào không biết. Tiêu dần dần vào cái vốn Trời cho mà đâu có hay. Rồi một hôm nào đó bỗng nhìn kỹ trong gương, thấy mình trắng tóc. Hốt hoảng, tiếc thời gian quá! Khi nghe tin những người bạn bằng tuổi mình, bệnh tật đến, từ từ theo nhau rơi xuống nhanh như mặt trời rơi xuống nước, họ vừa thương tiếc bạn vừa nghĩ đến phiên mình.
Thật
ra, nếu chúng
ta bình tâm
nghĩ lại một
chút, sẽ thấy
“Cái chết” nó
cũng đến tự
nhiên như “Cái
sống”.
Đơn
giản, mình
phải hiểu giữa
sống và chết
là một sự liên
hệ mật thiết,
vì lúc nào cái
chết cũng đi
song song từng
ngày với cái
sống.
Dẫu
biết rằng, đôi
khi có những
cái chết đến
quá sớm, nhưng
ta cũng đâu có
quyền từ khước
chết.
Tôi biết có người mẹ trẻ, con của bạn thân tôi. Chị bị ung thư, chị cầu xin Thượng Đế cho sống đến khi đứa con duy nhất của mình vào Đại Học. Chị không cưỡng lại cái chết, chị chỉ mặc cả với Thượng Đế về thời gian vì con chị lúc đó mới lên 3 tuổi. Thượng Đế đã nhận lời chị. Ngày con chị tốt nghiệp Trung Học, chị ngồi xe lăn đi dự lễ ra trường của con và tuần lễ sau chị qua đời. Trong suốt mười mấy năm trị bệnh, chị vẫn làm đủ mọi việc: chị đội tóc giả đi làm, đến sở đều đặn, lấy ngày nghỉ hè và ngày nghỉ bệnh đi trị liệu. Những bạn làm chung không ai biết chị bị ung thư, ngay cả xếp của chị. Khi họ biết ra, thì là lúc chị không đứng được trên đôi chân mình nữa. Chị sửa soạn từng ngày cho cái chết với nụ cười trên môi. Vẫn vừa đi làm, vừa cơm nước cho chồng con, ân cần săn sóc cha mẹ, hiền hòa giúp đỡ anh em trong nhà, chị mang niềm tin đến cho tất cả những người thân yêu của mình.
Sau ba năm chị mất, cậu con trai, mỗi năm vẫn nhận được một tấm thiệp sinh nhật mẹ viết cho mình (Mẹ đã nhờ qua người dì gửi hộ). Hôm sinh nhật 21 tuổi của cậu cũng vào ngày giỗ năm thứ ba của Mẹ, cậu nhận được tấm thiệp mừng sinh nhật mình, với dòng chữ nguệch ngoạc, chị viết cho con: Mừng sinh nhật thứ 21 của con. Hãy bước vui trong đời sống và nhớ rằng mẹ luôn luôn bên cạnh con. Tôi đọc những dòng chữ mà ứa nước mắt.
Tôi
nghĩ đến chị
với tất cả
lòng cảm phục.
Chị là người
biết sống
trong nỗi
chết. Khi
không thắng
được bệnh tật,
chị biết hòa
giải với nó để
sống chậm lại
với nó từng
ngày cho con
mình. Chắc
“Cái chết”
cũng nhân
nhượng với
chị, thông cảm
với chị như
một người bạn.
Một
chị bạn kể cho
nghe về một bà
bạn khác. Bà
này mới ngoài
sáu mươi,
nhanh nhẹn,
khỏe mạnh và
tính nết vui
vẻ, yêu đời.
Nhưng khi nào
đi ra khỏi nhà
bà cũng mang
theo một bộ
quần áo đặc
biệt, đủ cả
giầy vớ bỏ vào
một cái túi
nhỏ riêng
trong va-li.
Hỏi bà, sao
lại để bộ này
ra riêng một
gói vậy, bà
thản nhiên
nói: “Nếu tôi
chết bất thình
lình ở đâu,
tôi có sẵn
quần áo liệm,
không phiền
đến ai phải lo
cho mình.” Bà
mang theo như
thế lâu lắm
rồi, tôi không
biết có khi
nào bà ngắm
nghía mãi,
thấy chưa dùng
tới, bà lại
đổi một bộ mới
khác cho ưng ý
không? Giống
như người phụ
nữ sắp đi dự
tiệc hay cầm
lên, để xuống
thay đổi áo
quần sao cho
đẹp. Đi vào
cái chết cũng
có thể coi như
đi dự một đám
tiệc.
Tôi
nghĩ đây là
một người khôn
ngoan, sẵn
sàng cho cái
chết mà bà
biết nó sẽ đến
bất cứ lúc
nào. Bà đón
nhận cái chết
tự nhiên,giản
dị như đi dự
tiệc, hay một
chuyến đi xa,
đi gần, nào đó
của mình.
Nhưng
không phải ai
cũng nghĩ về
cái chết giản
dị như vậy.
Phần đông muốn
được sống lâu,
nên bao giờ
gặp nhau cũng
thích chúc cho
nhau tuổi thọ.
Thích hỏi nhau
ăn gì, uống gì
cho trẻ trung
mãi. Loài
người nói
chung, càng
ngày càng
thích sống hơn
chết. Họ tìm
kiếm đủ mọi
phương thuốc
để kéo dài
tuổi thọ.
Người ta ức
đoán, trong
một tương lai
rất gần, loài
người có thể
sống đến 120
tuổi dễ dàng
với những môn
thuốc ngăn
ngừa bệnh tật
và bồi dưỡng
sức khỏe.
Rồi
người ta sẽ
còn tạo ra
những bộ phận
mới của nội
tạng để thay
thế cho những
bộ phận gốc bị
nhiễm bệnh.
Gan, ruột, bao
tử v.v, sẽ
được thay như
ta thay những
phần máy móc
của một cái xe
cũ. Chúng ta,
rồi sẽ sống
chen chúc nhau
trên mặt đất
này.
Chỉ
tiếc một điều
là song song
với việc khám
phá ra thuốc
trường thọ
người ta cũng
phải phát minh
ra những người
máy (Robot) để
chăm sóc những
người già này,
vì con cháu
quá bận (Chắc
đang chúi đầu
tìm thuốc
trường sinh)
không ai có
thời giờ chăm
sóc cha mẹ
già. Theo tôi,
ngắm nhìn hình
ảnh một cụ ông
hay một cụ bà
lưng còng, tóc
bạc, đang cô
đơn ngồi trong
một căn buồng
trống vắng,
được một người
máy đút cơm
vào miệng,
thật khó mà
cảm động, đôi
khi còn cho ta
cái cảm giác
tủi thân nữa.
Nhưng
sống như vậy
mà có người
vẫn thích
sống. Một
người đàn ông
ngoài bẩy
mươi, bị bệnh
tim nặng, đang
nằm trong
phòng đặc biệt
(ICU) khi mơ
màng tỉnh dậy,
nhắn với các
con cháu là
khi nào vào
thăm không ai
được mặc áo
mầu đen. Ông
kiêng cữ mầu
của thần chết.
Ông quên rằng
thần chết, đôi
khi, có thể
đến với chiếc
áo mầu hồng.
Thật
ra, chính nhờ
“cái chết” cho
ta nhận biết
là “cái sống”
đẹp hơn và có
giá trị hơn,
dù có người
sống rất cơ
cực vẫn thấy
cuộc đời là
đẹp.
Những
bậc thiên tài,
những nhà văn
lớn đã tự tìm
về cái chết
khi họ bắt đầu
nhìn thấy cái
vô vị trong
đời sống như
nhà văn Ernest
Hemingway,
Yasunari
Kawabata và
họa sĩ Vincent
van Gogh, v.v.
Chắc họ không
muốn sống vì
thấy mình
không còn khả
năng hưởng hết
vẻ đẹp của
“cái sống”
nữa. Họ là một
vài người
trong số nhỏ
trên mặt đất
này sau khi
chết để lại
tên tuổi trên
những trang
sử, lưu lại
hậu thế, còn
phần đông nhân
loại, sau khi
chết một thời
gian, không để
lại một di
tích nào. Con
cháu có thờ
cúng được một
hai thế hệ,
sau đó tên
tuổi mờ dần,
mất hẳn theo
ngày tháng, vì
chính những kẻ
thờ phụng đó
lại tiếp theo
nằm xuống cùng
cát bụi.
Ðời
sống con người
chóng qua như
cỏ, như bông
hoa nở trong
cánh đồng, một
cơn gió thoảng
đủ làm nó biến
đi, nơi nó mọc
cũng không còn
mang vết tích.
(Thánh Vịnh)
Thượng Đế khi đem mình vào đời, có hỏi ý kiến mình đâu. Nên chắc chắn là khi Ngài gọi mình đi cũng chẳng cần thông báo trước.
Chúng
ta cứ thong
thả sống từng
ngày, khi nào
chết thì chết,
mặt trời mọc
rồi mặt trời
lặn, bông hoa
nở rồi bông
hoa tàn, thế
thôi.
Tại
sao ta phải
cay cú với cái
chết? Hãy dùng
trí tưởng
tượng của
mình, thử hình
dung ra một
thế giới không
có cái chết.
Chắc
lúc đó, chúng
ta sẽ không
còn không khí
mà thở chứ
đừng nghĩ đến
có một phiến
đất cho bàn
chân đứng.
Trần
Mộng Tú