ĐÃ CÓ,
MỘT THỜI ĐAU NHƯ THẾ....
*“Vận khứ anh-hùng ẩm hận đa.. .”( Đặng-Dung)
Một buổi sáng mùa Xuân u-ám,
Ta ngồi trên lô-cốt chờ tin,
Tay súng chặt, đồn ta vẫn bám,
Nghe đời qua lặng-lẽ... buồn tênh...!
Cánh đồng hôm nay không có nắn g,
Rào kẽm gai trong lớp sa mù,
Đâu những đàn cò phơi cánh trắ ng ?
Xa-xa... nghe vọng lại súng t hù...!
Mười mấy năm, làm thân lính ch iến,
Gót giày “saut”* mòn hết đi rồ i,
Chưa sống - đã đem đời dâng hi ến,
Súng đạn nào, chê thịt da người?!
Không dám bảo rằng ta yêu nước ?
Nhưng dù sao - cũng góp cho đời,
Một chút gì ... như người đi t rước,
Đã lao-đao, lóng-đóng một thời...!
Bỗng nhật-lịnh làm ta đau nhói :
“Buông súng chờ tại chỗ - Án b inh!”
Lời kinh nào, cho ta xin với,
Đành cười buồn... trong nỗi l ặng thinh!
Chiếc nón “rừng”** treo trên c ọc sắt,
Chào buồn: Thôi, giã-biệt một lần!
Màu áo trận bây giờ lịm ngắt,
Phòng Hành-quân... lui tới tầ n-ngần...!
Ta đi giữa bầy người cuồng tín ,
Hàng lưỡi lê nhọn hoắc căm hờn ,
Chợt - ngước nhìn trong niềm câm nín,
Chiếc cờ tang kéo xuống đau bu ồn..!!.
Ta cảm ơn về ông Tổng-thống,
Dạy cho ta tủi nhục một lần,
Ông đã từng mang lon Đại-tướng ,
Nhưng sao - như vẫn thấy ngu đần?!
Ta cấp Úy, nhưng đồn vẫn đứng,
Chờ đến khi... giờ phút cuối cùng,
Nhìn quanh - chỉ thấy vài tên lính,
Tướng tá đâu? mệnh nước mịt- mùng!
Thôi, giã-từ đồn lẻ của ta,
Ôi, cánh đồng xanh dưới nắng t à,
Chờ ran tiếng ếch - màn đêm xu ống,
Dẫn lính đi lùng... đột-kích xa...!
Thôi, giã từ quán cóc bên đườn g,
Những chiều buồn nắng quái trê n sông,
Thương cuộc đời làm thân lính chiến,
Ta thấy em... trong chén rượu nồng...?
*Giày “saut”: tiếng Pháp, saut là nhảy,
giày đầu tiên dành cho lính Dù , sau
này dùng chung cho lính phe tư -bản....
**Nón “rừng”: còn gọi là nón “ bord”, tiếng Pháp,
bằng vải, vành hơi rộng... dùn g để lính đi rừng...
*Nguyễn-Tư