Tuesday 17 November 2015

BỆNH GÌ ?!! HÀN MẶC TỬ PHẢI CHẾT




BỆNH GÌ ?!! HÀN MẶC TỬ PHẢI CHẾT


Những người mắc bệnh phong, tay chân thường bị hủy hoại dần và thời gian tử vong không dưới 10 năm. Vậy nhưng với Hàn Mặc Tử chỉ đúng 5 năm phát bệnh và khi chết cơ thể hoàn toàn nguyên vẹn chứ không hề bị hủy hoại như bất cứ một bệnh nhân cùi nào.



Theo những tư liệu bấy lâu nay thì thi sĩ Hàn Mặc Tử, nhà thơ tài hoa của phong trào thơ mới chết vì bệnh phong, một trong "tứ chứng nan y" theo quan niệm một thời.
Gần 70 năm sau ngày Hàn Mặc Tử ra đi, nhiều người thực sự yêu quý thơ và quan tâm đến cuộc đời tài hoa bạc mệnh của ông đã xâu chuỗi những mảng ký ức lại để hình dung rõ hơn về cuộc đời và cái chết của Hàn Mặc Tử. Một vấn đề được đặt ra là: Hàn Mặc Tử chết không phải vì bệnh phong?


Bệnh "phong" hay bệnh "phung"?
Trong cuốn Hàn Mặc Tử (NXB Võ Doãn Mai - 1942), tác giả Trần Thanh Mại có viết: “Đùng một cái, một buổi mai ngủ dậy, thi sĩ thấy mấy đầu ngón tay tê dại đi và không thẳng ra được, và soi gương thì thấy da mặt sượng sần mà hai gò má đã đỏ ửng.
Chàng tuyệt giao với bạn hữu, với cả Mộng Cầm, sau khi thú thực với nàng nỗi đại biến của mình. Lẽ tất nhiên chàng cũng lấy lời cao thượng xin cởi những ước hẹn ngày xưa và dâng trả sự tự do lại cho nàng”.
Theo gia đình Hàn Mặc Tử, thì vào khoảng đầu năm 1935, họ đã phát hiện những dấu hiệu của bệnh phong trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng không quan tâm vì cho rằng nó là một chứng phong ngứa gì đó không đáng kể.
Cho đến năm 1936, khi ông được xuất bản tập "Gái quê", rồi đi Huế, Sài Gòn, Quảng Ngãi, vào Sài Gòn lần thứ hai, được bà Bút Trà cho biết đã lo xong giấy phép tờ Phụ nữ tân văn, quyết định mời Hàn Mặc Tử làm chủ bút, bấy giờ ông mới nghĩ đến bệnh tật của mình. Nhưng ý ông là muốn chữa cho dứt hẳn một loại bệnh thuộc loại “phong ngứa” gì đấy, để yên tâm vào Sài Gòn làm báo chứ không ngờ đến một căn bệnh nan y.


Năm 1938 - 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội. Tuy nhiên, ở bên ngoài thì không ai nghe ông rên rỉ than khóc. Ông chỉ gào thét ở trong thơ mà thôi.
Trước ngày Hàn Mặc Tử vào trại phong Quy Hòa, Nguyễn Bá Tín, em ruột của nhà thơ cho biết tình trạng bệnh tật của anh mình như sau: “Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc “găng” tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng”.
Ông Nguyễn Bá Tín, trong một chuyến thăm Bệnh viện Quy Hòa, có đến thăm bác sĩ Gour Vile. Bác sĩ nói rằng: Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học (thời đó) chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ. Ông bác sĩ quả quyết bệnh cùi không thể lây dễ dàng được.
Vậy tại sao Hàn Mặc Tử lại mắc chứng phong? Nhiều thông tin cho rằng, một hôm Hàn Mặc Tử đi dạo với bà Mộng Cầm ở lầu Ông Hoàng (Phan Thiết), qua một cái nghĩa địa có một ngôi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗng ông phát hiện ra từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ông về nhà nghỉ, để rồi sớm mai ông phát hiện ra mình như vậy.
Tuy nhiên, về sau này, khi trả lời phỏng vấn tác giả Châu Hải Kỳ trên báo Phổ thông số 63, ra ngày 15/8/1961, bà Mộng Cầm cho rằng: “Tôi nhận có đi chơi lầu Ông Hoàng với Hàn Mặc Tử, có gặp mưa, có ngồi ở nghĩa địa, nhưng không phải vì đó mà Hàn Mặc Tử bị phong. Nếu Hàn Mặc Tử bị phong sao tôi không hề hấn gì cả? Hai người cùng ngồi núp mưa một chỗ kia mà”.
Sau này, thời gian cũng khỏa lấp dần, cũng không ai biết tại sao nhà thơ tài hoa này lại mắc chứng bệnh nan y đó.
Đó là căn bệnh do trực khuẩn Hansen gây nên. Trước đây vì thành kiến sai lầm rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm nên bao nhiêu bệnh nhân đã bị hắt hủi, cách ly, xa lánh thậm chí bị ngược đãi (trôi sông, chôn sống, bỏ vào rừng cho thú dữ ăn thịt), thì Hàn Mặc Tử cũng không là ngoại lệ. Lúc này, gia đình ông phải đối phó với chính quyền địa phương vì họ đã hay tin ông mắc căn bệnh truyền nhiễm, đòi đưa ông cách ly với mọi người.
Sau đó gia đình phải đưa ông trốn tránh nhiều nơi. Việc đưa ông đi trốn tránh nếu xét về mặt hiệu quả chữa trị thì đúng là phản khoa học. Vì lẽ ra cần phải sớm đưa ông vào nơi có đầy đủ điều kiện chữa trị nhất lúc bấy giờ là Bệnh viện phong Quy Hòa.
Thực tế, bệnh phong chỉ lây trong những điều kiện nhất định, ít lây hơn nhiều so với bệnh lao, là chỉ khi tiếp xúc lâu dài với các thể phong nặng (phong hở) như phong ác tính, phong đang tiến triển, chảy nước mũi nhiều và có tổn thương lở loét ở da, ở bàn tay, bàn chân, đặc biệt đối với các trẻ nhỏ, khi sức đề kháng còn kém.
Các thể phong nhẹ khác như phong bất định, phong củ ít có khả năng lây hơn nhiều. Tỉ lệ lây giữa vợ chồng chỉ là 2-3%.
Mặc dù trong y văn đã có nói đến một số trường hợp lây phong do xuyên dái tai hoặc xăm trổ, nhưng ở Việt Nam từ hơn 100 năm nay ở các trại phong Quỳnh Lập, Sóc Sơn, Phú Bình, Sơn La, Quy Hòa chưa hề có cán bộ nhân viên y tế nào bị lây bệnh.
Bác sĩ Trần Hữu Ngoạn, Giám đốc Bệnh viện phong Quỳnh Lập sau đó ở Quy Hòa, nơi thi sĩ Hàn Mặc Tử đã điều trị trước đây, để làm gương cho nhân viên, ông từng đi, ăn, ở nhiều năm giữa khu bệnh nhân.
Thậm chí, bác sĩ đã lấy bệnh phẩm ở nơi tổn thương tự chích vào da nhiều lần, cho tới nay vẫn không bị lây bệnh để chứng minh rằng bệnh phong không phải là thứ đáng xa lánh, đáng sợ đến thế.
Gần đây có một tờ báo cho rằng, Hàn Mặc Tử chết vì bệnh “phung” chứ không phải bệnh “phong”. Thực tế, bệnh “phung” và bệnh phong khác nhau như thế nào?
Theo cách gọi của người miền Trung, thì bệnh "phung" chính là bệnh cùi, còn bệnh phong lại chính là bệnh tê thấp (phong thấp). Kể cả với cách gọi của người miền Bắc, thì bệnh “phong” vẫn được hiểu là phong thấp, hay tê thấp.
Khi những người mắc bệnh "phung" qua đời, dân thường mai táng ở những khu vực tách biệt và rắc vôi quanh mộ phần để chống lây nhiễm. “Phung” theo phương ngữ, chính là “phong” theo cách gọi phổ thông.
Tuy nhiên, xét trên góc độ khoa học, thì trực khuẩn Hansen không có khả năng lây lan lớn, nhất là với những người có sức đề kháng cao và có thể chữa trị thành công bằng các phương pháp khoa học hiện đại chứ không phải bằng một tình thương mầu nhiệm nào cả.
Rõ ràng, một căn bệnh có quá nhiều tên gọi: phong, cùi, hủi, phung... Trong khi đó, giữa những tên gọi ấy có thể gây những hiểu lầm nhất định sang một căn bệnh khác thì quả là... không ổn. Chính vì vậy, nên gọi lại tên của căn bệnh này một cách khoa học như đúng cái tên trực khuẩn vốn có của nó: bệnh Hansen.
Hàn Mặc Tử chết vì bệnh gì?
Những người mắc bệnh phong, tay chân thường bị hủy hoại dần và thời gian tử vong không dưới 10 năm. Vậy nhưng với Hàn Mặc Tử thì cái chết của ông quá nhanh so với thời kỳ phát bệnh, chỉ đúng 5 năm và khi chết cơ thể hoàn toàn nguyên vẹn chứ không hề bị hủy hoại như bất cứ một bệnh nhân cùi nào. Một vấn đề được đặt ra, có phải thi sĩ tài hoa này từ giã cõi đời là vì bệnh phong đã đến hồi kết?
Trong câu chuyện với người em của thi sĩ Hàn Mặc Tử, bác sĩ Gour Vile cũng nói rằng kinh nghiệm từ các trại cùi, không có bệnh nhân nào chỉ đau có từng ấy năm mà chết được.
Ông trách gia đình Hàn Mặc Tử không đưa nhà thơ đi trại phong sớm. Và bác sĩ cho rằng, Hàn Mặc Tử chết là do nội tạng hư hỏng quá nhanh do uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm trước khi nhập viện phong Quy Hòa.
Ông Nguyễn Bá Tín từng giải thích về việc anh mình đi trại phong chậm như thế này: “Tôi cũng biết có nhiều người chạy chữa công khai, không có mặc cảm, không sợ tiếng tăm nên đã lành bệnh. Có lẽ mẹ tôi quá tế nhị về điểm này. Cũng có thể là bà cụ không nỡ để anh có cảm nghĩ về bệnh nan y của anh bị ruồng rẫy”.
Khi Hàn Mặc Tử phát bệnh, mẹ của ông mời một ông thầy ở Gò Bồi, ngoại ô thành Quy Nhơn đến bắt mạch bốc thuốc. Uống được chừng nửa tháng, đã có các biến chuyển tốt, những dấu đỏ trên người biến gần hết.
Lúc này, ông cảm thấy rất phấn khởi, chỉ nghĩ đến ngày lên đường vào Sài Gòn làm tờ Phụ nữ tân văn. Cũng vì nôn nóng, một hôm Hàn Mặc Tử uống thuốc gấp đôi liều lượng, người co giật ngã từ trên giường xuống đất khiến gia đình hoảng hốt. Từ đó tiến triển bệnh dường như bị chững lại.
Sau thời kỳ này, việc chữa bệnh cho Hàn Mặc Tử liên tục đổi thầy, đổi thuốc. Có một điều, ông không chịu chữa trị bằng tây y mà cứ theo đông y. Mô tả của những người thân của Hàn Mặc Tử trong thời kỳ này là: Thân thể không lở lói nhưng gầy sọm đi, nước da thâm nâu như tô lên thứ thuốc vẽ chỗ đậm chỗ lợt.
Lúc nhập viện, Hàn Mặc Tử chỉ nằm ở Bệnh viện Quy Nhơn ít hôm rồi được chuyển vào Bệnh viện phong Quy Hòa (20/9/1940) mang số bệnh nhân 1.134 và đến ngày 11/11/1940 thì qua đời tại đây.
Nếu giả thuyết rằng Hàn Mặc Tử chết vì nội tạng hư hỏng quá nhanh nên cơ thể chóng suy sụp dẫn đến tử vong, thì bệnh phong cũng góp nguyên nhân làm ông tử vong nhanh như vậy. Sau này, có người cho rằng ông không chết vì bệnh phong mà chết vì chứng kiết lị. Vậy thực hư thế nào?
Hàn Mặc Tử trút hơi thở cuối cùng trong cô đơn lặng lẽ, không có bất kỳ một người thân nào bên cạnh. Gần 50 năm sau, người bạn đồng bệnh của ông là Nguyễn Văn Xê mới kể lại chi tiết những giây phút cuối cùng ấy trên tạp chí Sông Hương số 28 ngày 11/12/1987.


Hồi ký viết lại rằng, ngày 20/9/1940, có tiếng phanh xe ôtô trước Nhà thương nam làm bệnh nhân người nhìn qua cửa sổ, kẻ lẹ chân chạy ra gần chiếc xe. Mẹ Juetta lẹ làng chạy ra cửa tiếp hồ sơ nơi tay bác y tá đứng tuổi rồi đỡ bệnh nhân xuống. Đến giường số 3, mẹ dừng lại, nhìn hồ sơ và nhẹ nhàng nói: “Trí, đây là chỗ của con”.
15 giờ chiều hôm ấy, ông Xê bắt chuyện với Hàn Mặc Tử: “Tôi là Xê, người Huế, vào trại đã hai năm, hiện đang giúp việc cho các mẹ. Tôi còn nhỏ lắm, mới 21 tuổi thôi, xin anh Trí hãy gọi bằng em cho thân mật”, Hàn Mặc Tử lắc đầu: “Anh Xê đừng quan tâm chuyện tuổi tác, tôi cũng mới hai mươi tám”.
Hàn Mặc Tử nói với ông Nguyễn Văn Xê: “Khắp các tiệm thuốc bắc và các ông bà thầy thuốc nam ở Bình Định tôi đến chữa không sót một người, mà càng ngày thân thể ra thế này”.
Hàn Mặc Tử vào Quy Hòa được ba tuần. Nhờ sự chăm sóc chu đáo, tận tụy của các nữ tu dòng thánh François Dassise, mà đặc biệt là mẹ Juetta phụ trách Nhà thương nam là người lo lắng cho Hàn Mặc Tử nhất nên bệnh tình thuyên giảm rõ rệt.
Từ tuần lễ thứ tư, sinh hoạt của ông đều đều: 5h sáng dậy đi nhà thờ đọc kinh và rất sốt sắng chầu lễ, rước lễ; 7h cùng anh em bệnh nhân ăn điểm tâm cháo trắng với đường đen; 8h băng bó, uống thuốc hoặc chuyện trò với anh em đồng bệnh; 11h ăn cơm trưa rồi nghỉ ngơi; 14h30 đi nhà thờ đọc kinh lần hạt; đến 17h đi ăn cơm chiều.
Sang tuần thứ năm, Hàn Mặc Tử được mẹ Juetta chích thuốc trị bệnh thời đó do bác sĩ Gour vile, Giám đốc Bệnh viện Quy Nhơn bào chế với tên Huile de Cholmoogra để chích ven mỗi lần 1/2cc cộng với thuốc trị công phạt ác tính là Essene Teberentine nên bệnh có vẻ giảm do đó thường thấy Hàn Mặc Tử bách bộ lui tới ở hành lang Nhà thương nam hoặc ở vườn hoa ngồi suy tư trên ghế đá với tập giấy kẹp ở nách cầm cây bút chì nhỏ mòn cùn.
Hàn Mặc Tử sinh hoạt bình thường cho đến vào buổi trưa 30/10/1940, sau khi đi đọc kinh lần hạt ở nhà thờ về.
Cả buổi trưa cho đến tối ngày hôm đó (30/10/1940) ông Xê bận việc đến sáng hôm sau mới hay Hàn Mặc Tử đi kiết bị kiệt sức nên không thể đến nhà thờ.
Khi ông Xê đến thăm thì thấy Hàn Mặc Tử phờ phạc, xanh xao nhiều lắm nên ông đề nghị mẹ Juetta cho ông vào trong phòng liệt nằm cho tiện. Rồi suốt hơn một tuần lễ từ 30/10 đến 7/11/1940 thì bệnh kiết lị của Hàn Mặc Tử vẫn không thuyên giảm mà có phần tăng thêm nên người ông khô đét, gầy guộc xanh xao đến thảm não.
Đêm 8/11/1940, Hàn Mặc Tử đi tiêu rất nhiều lần, mỗi lần đi có một chút chất nhầy và vài giọt máu nên ông Xê thấy Hàn Mặc Tử mệt lả đến đi không nổi, ông phải dìu đi tiêu, rồi về giường nằm.
Đêm càng về khuya thì sức ông Xê càng mệt nên đã ngủ quên chắn cả lối đi, không ngờ trong lúc ấy Hàn Mặc Tử tuột xuống giường đi không nổi nên đã lấy một cái âu ngồi lên đó mà đi tiêu.
Khi ông Xê giật mình thức giấc thì thấy Hàn Mặc Tử ngồi trong xó tối sau chiếc tủ con ôm bụng nhăn nhó nói: “Anh Xê ơi, đỡ tôi lên với”. Ông Xê đến đỡ Hàn Mặc Tử lên giường nằm rồi mới nói: “Sao anh không thức tôi dậy”, thi sĩ trả lời vô cùng mệt nhọc: “Tôi thấy anh cũng mệt nên để anh nghỉ một chút”.
Sáng 9/11/1940, sau khi khám bệnh, mẹ Juetta bưng chén thuốc cho Hàn Mặc Tử uống xong nói: “Chiều nay có xe đi mời Cha Tuyên úy vào xức dầu cho con”, ông gật đầu và nói tiếng “dạ” rất nhỏ. Sáng 10/11/1940 lúc 6h45, Cha cho Hàn Mặc Tử được chịu phép xức dầu và rước lễ lần cuối.
Đêm 10/11, ông Xê trực, hai mẹ Juetta và soeur Julienne có đến thăm Hàn Mặc Tử ba lần và lần thứ ba khoảng 3h thì soeur Julienne cho biết từ đó đến sáng Hàn Mặc Tử sẽ chết.
Thời gian của đêm đó như chùng xuống, ông Xê nhìn Hàn Mặc Tử ngoài những lúc đau bụng đi tiêu, thì khi quỳ cũng như ngồi hoặc nằm, Hàn Mặc Tử đều đọc kinh cho đến ngày 11/11/1940 lúc 5h45 sáng thì ông nhẹ nhàng tắt thở.
Có người cho rằng con đường đi đến cái chết của Hàn Mặc Tử dù ngắn ngủi nhưng hồ như vật vã đau đớn suốt một chuỗi thời gian quá nặng nề. Chính vì ông bị suy sụp tinh thần nên bệnh tật càng có cơ hội tàn phá sức khỏe ông đến kiệt cùng. Và rất nhiều ý kiến cho rằng, một trong những điều tác động gây nên sự suy sụp ấy, chính là do bản thân nhà thơ có chứng tâm thần từ thời mới lớn, nên rất hay hoảng loạn và hoang tưởng.
Đây cũng là một ý kiến có sức thuyết phục vì thơ ông thường có những dấu hiệu của “cuồng điên hoảng loạn”, đặc biệt là những năm tháng cuối đời.
Người em trai của ông, sau nhiều năm lặng lẽ chiêm nghiệm, đã công bố một kết luận vào năm 1991: “Trong quá trình chung sống bên anh tôi ghi nhận anh có hiện tượng suy nhược tâm thần, bệnh đó đã được nhiều người bạn tôi, chuyên khoa tâm lý sau này xác nhận là hiện tượng “névrose”, một chứng rối loạn thần kinh nào đó, mà con người vẫn còn sáng suốt và rung cảm bén nhạy. Vẫn làm chủ được trí óc mình”.
Khoảng 17, 18 tuổi, Hàn Mặc Tử suýt chết đuối ở biển Quy Nhơn. Sau khi thoát chết, ông trở nên hoảng loạn khác thường. Từ đó, ông bỏ luôn thói quen tắm biển, sợ nước, ít hoạt động, hình thể gầy nhỏ đi. Nhiều biểu hiện làm cho gia đình sợ rằng ông bị tâm thần, nhưng sau đó thấy ông bình thường, thậm chí còn tập làm thơ nên cũng quên đi nỗi lo lắng...


Kim Chi Sưu Tầm