Hòn Phụ Tử - Hà Tiên
Điểm du lịch Hòn Phụ Tử thuộc khu Di
tích danh thắng quốc gia Hòn Chông, được Bộ Văn hoá Thông tin - nay là
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch công nhận ngày 21 tháng 1 năm 1989.
Khu
du lịch Hòn Phụ Tử có diện tích gần 173ha, từ Tp. Rạch Giá đi thẳng
theo Quốc lộ 80 hướng về thị xã Hà Tiên, đến ngã ba Ba Hòn thì rẽ tay
trái đi hơn 15km đến mũi Hòn Chông. Đường giao thông thuận tiện và thông
suốt, dân địa phương hiền hoà, mến khách, giá cả dịch vụ vừa phải. Hàng
năm khu du lịch Hòn Phụ Tử đón hàng trăm ngàn lượt khách đến tham quan
du lịch, điểm tham quan nổi bật của khu di tích là Chùa Hang và Hòn Phụ
Tử.
Hòn Phụ Tử:
Từ Chùa Hang phóng tầm mắt hướng ra biển vài trăm mét ta bắt gặp Hòn
Phụ Tử. Người Khmer gọi Phnum-đong-tong: Phnum là núi, đong-tong là cột
cờ, nghĩa là ngọn núi có hình dạng như cây cột cờ. Tương truyền, thời
thực dân Pháp mới đến Việt Nam, mỗi lần chúng muốn ghé vào cửa Chùa Hang
đều bị cụm Hòn Phụ Tử “trôi” ra chặn lại, sau đó chúng dùng đại bác bắn
đỉnh núi phía tay phải. Hiện nay đỉnh núi ấy còn dấu bể bên chóp, Hòn
Phụ Tử được tạo thành bởi một khối đá cao và một khối đá thấp, khối cao
khoảng 30m gọi là Hòn Phụ, khối thấp cao khoảng 25m hơi nghiêng về hướng
đông gọi là Hòn Tử.
Sự
tích kể rằng, thuở nước biển chưa thoái, tại Chùa Hang mực nước còn cao
hơn bây giờ, trong hang có một con thủy quái thường ra quấy phá dân cư.
Không thể để dân làng khổ sở chết chóc hàng năm như vậy, từ núi Tà lơn
có hai cha con người đạo sĩ đến, xin diệt thủy quái, dân chúng mừng rỡ
và ủng hộ. Cha con người đạo sĩ thoa một lớp thuốc làm cho da cứng như
đá, rồi mang câu móc lặn vào hang thủy quái. Người con vào hang
ném
câu móc vào hàm thủy quái rồi xả dây kéo ra cho ngưới cha cùng dân làng
kéo thủy quái lên. Nhưng con thủy quái rỡ được lưỡi câu, móc vào kẹt
đá, người cha và dân làng trục mãi không lên, người con thấy vậy lặng
vào hang để xem xét. Con thủy quái núp gần đó xông ra táp một nhát làm
người con bể mất một bên đầu, anh vọt lên mặt nước, gọi lớn: “Bớ cha,
câu quát”. Người cha thấy con bị thương, lao vội xuống nước dựng con
dậy, đứng trơ ra bàng hoàng…đã đến lúc thuốc hoá đá hết giờ hồi sinh,
hai cha con người đạo sĩ toàn thân bị hoá đá đứng mãi trước cửa hang con
thủy quái. Con thủy quái cũng bị thương trong lúc hỗn chiến, nó nhảy
vọt lên ngọn đảo Đá Lửa ngồi để chữa thương, nhưng rồi nó cũng bị hoá
đá. Bởi hình dáng của nó giống một con nghê, nên bây giờ người đời gọi
đảo “Đá Lửa Con Nghê”. Dù đã hoá đá nhưng nó vẫn di chuyển được trong
khoảng 100m, khi nước lớn nó ở vị trí khác, nước ròng nó lại trở về vị
trí ban đầu nên những ngư dân ở dây hết sức kinh ngạc và gặp khó khăn do
khó xác định được phương hướng khi hòn cứ di chuyển như vậy. Họ lặn
xuống quan sát thì thấy phần chân khối đá không dính liền với phần đất
nên đã dùng dây thừng cột níu lại nhưng nó vẫn cứ di chuyển. Chuyện kể
rằng khi tàu tuần tra của Pháp đi ngang qua đây thấy khối đá lớn cứ di
chuyển nên rất bàng hoàng liền lấy súng đại bác bắn dữ dội vào, lửa văng
tung toé, khối đá nứt làm đôi cách nhau vài mét, đầu con ngê bị gãy gục
xuống nên từ đó hòn không còn di chuyển nữa. Từ đó người dân địa phương
gọi là hòn “Đá lửa Con nghê”. Bây giờ vùng mé biển này đêm khuya ta
nghe một loài chim ăn đêm cứ kêu “Cắc ca câu quát! Cắc ca câu quát!”.
Dân gian bảo rằng loài chim đó là hiện thân của người con, và tiếng kêu
ấy là: “Bớ cha câu quát!”. Đứng từ cửa hang Chùa Hang ta nhìn ra: hòn
Con (phía tay phải) đã bị bể vẹt một bên đầu, hòn cha vẫn còn cao nhọn,
Phụ - Tử cứ đứng bên nhau thi gan cùng tuế nguyệt, để cho người đời
truyền tụng một giai thoại anh hùng.
Ngoài
ra còn có truyền thuyết kể rằng: xưa vùng này có hai con thuồng luồng
sống đã ngàn năm rất to lớn, hung dữ, thường nhận chìm các thuyền đánh
cá qua lại của ngư dân. Đêm đến trườn lên bờ bắt người và súc vật, dân
làng kinh hãi bỏ đi gần hết. Ngày nọ có hai cha con vị pháp sư đi ngang
qua đây thấy cảnh nhà trống hoang sơ, không một bóng người động lòng
thương muốn ra tay trừ thuỷ quá, hai cha con lập bàn tế thần linh rồi
chèo thuyền ra khơi tìm thuỷ quái. Biển bổng nổi sóng, từ xa hai con
thuỷ quái chờn vờn bơi tới. Hai cha con miệng ngậm đạo bùa, tay cầm gươm
thiêng lội tới nghinh chiến. Trận chiến thật ác liệt, hai con thuỷ quái
bị thương máu loang hồng mặt biển. Trừ xong thuỷ quái, chèo thuyền vào
bờ thì bỗng nhiên thuyền hai cha con hoá đá thành Hòn Phụ Tử. Nhìn từ xa
thấy cụm Hòn Phụ Tử có dáng như chiếc thuyền và hai cha con tựa vào
nhau thành một thế đứng vững chắc, sừng sững như đêm ngày canh giữ cho
dân làng nơi đây được yên ổn làm ăn sinh sống.
Có
truyền thuyết lại kể đây là phần nối tiếp câu chuyện của Hòn Vọng Phu ở
phương bắc. Chuyện kể rằng khi người chồng phát hiện người vợ chính là
cô em gái thất lạc của mình, đau khổ dẫn đứa con trai đi về phương nam,
hai cha con đi mãi đến vùng biển Hòn Chông. Người vợ ở quê nhà quá
thương chồng con, bèn bồng đứa con nhỏ lên núi đứng ngóng về phương nam
và hoá đá thành đá Vọng Phu. Người chồng ở phương nam cũng quá nhớ
thương vợ con, nên thường dẫn đứa con trai ra bờ biển ngóng về phương
bắc, một đêm mưa gió bảo tố hai cha con đã hoá thành hòn Phụ Tử. Với mỗi
truyền thuyết, Hòn Phụ Tử càng được tô đậm tính nhân văn, hấp dẫn người
nghe đến với mình ngày một nhiều hơn, sau khi vãn cảnh Chùa Hang.
Hòn
Phụ Tử còn gợi vóc dáng hai mũi tên đặt trên bệ phóng. Nơi đây từng
chứng kiến những thương thuyền Bồ Đào Nha, những cánh buồm của bọn cướp
biển, những chiếc thuyền của Nguyễn Ánh, Tây Sơn, Nguyễn Trung Trực, rồi
đến thuyền áp tải lương thực và vũ khí của quân và dân ta trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
Từ
nơi này nhìn về phía Tây nam là Quần đảo Bà Lụa với 46 hòn đảo lớn nhỏ,
xinh đẹp được ví như một Vịnh Hạ Long thu nhỏ và mệnh danh là Vịnh Hạ
Long của phương nam. Một số hòn mang trên mình những sự tích ly kỳ mang
tính huyền thoại.
Ở
Kiên Giang có hàng trăm hòn lớn nhỏ, đa dạng, kể luôn đảo Phú Quốc.
Riêng Hòn Phụ Tử được đa số du khách cho là trội nhất, gợi cảm, miên man
mà ít nơi nào có được. Với hình dáng đặt biệt của mình Hòn Phụ Tử một
thời đã từng là biểu tượng của du lịch Kiên Giang. Bể dâu biến đổi là lẽ
thường tình của tự nhiên, vào một ngày tháng 7 âm lịch năm 2006
(9/8/2006), Hòn Phụ đã gãy ngang và đổ xuống biển để lại trong lòng rất
nhiều người sự nuối tiết một kỳ quan, âu cũng là quy luật sinh tồn hết
sức tự nhiên của tạo hóa.
Chùa Hang - Hà Tiên
Chùa
Hang có từ đầu thế kỷ 18, nằm trong lòng hang núi, Chùa Hang cao 181m
thuộc sơn hệ Hòn Chông. Chùa có tên chữ là Hải Sơn Tự nằm trọn vẹn trong
một hang rất lớn có hai cửa rộng: cửa hướng Tây thông ra biển, cửa
hướng Bắc nối tiếp với con đường dẫn vào Chùa từ đất liền. Đây chính là
đỉnh cuối cùng của dãy núi Hòn Chông nhưng do trong hang có ngôi chùa
nên dân gian quen gọi là núi Chùa Hang và Chùa Hang.
Bước
qua cổng tam quan trước khuôn viên Chùa là khoảng sân rộng chạy dài tới
chân núi An Hải, trước mặt là hang núi khá rộng, dài khoảng 40m, chổ
hẹp nhất cũng vừa khoảng 3-4 người đi qua được. Đây là hang động thiên
nhiên nằm trong ngọn núi đá vôi bị xâm thực cách nay hàng ngàn năm, lần
theo vách hang có rất nhiều vỏ hến, vỏ sò bám đầy trên vách. Chùa Hang
nằm phía trong đó, chùa có nhiều tượng Phật từ ngoài bước vào chánh điện
là tượng phật Thích Ca, tượng Bồ đề Đạt Ma, tượng Phật nghìn mắt nghìn
tay, tượng Đường Tam Tạng… Rẽ phải chánh điện là đường dẫn vào hang, lần
theo con đường tối hai bên là đất đá nhám, dựng đứng ta sẽ bắt gặp hai
pho tượng phật Thích Ca mang phong cách tượng phật Thái Lan. Vào thời
Mạc Thiên Tích Ông đã cho hai hoàng tử Xiêm La là Chiêu Tuý và Chiêu Xi
Xang lánh nạn nơi đây, hai vị hoàng tử này đã lập chùa trong hang, tạc
tượng Phật để thờ, tính đến nay hai pho tượng phật Thích Ca đã an vị hơn
300 năm ở Chùa Hang.
Trước
cửa hang phía Nam có miếu thờ bà Chúa Xứ tượng thờ cao 1,2m. Đến cuối
hang, ra ngoài bãi cát mịn, nước trong xanh nhìn ra xa là Hòn Phụ Tử
sừng sững mọc lên giữa biển. Bên tay trái là Hang Kim Cương được hình
thành do nước biển xâm thực tạo thành hang động ăn sâu vào chân núi đá
vôi, trải qua các thời kỳ nước mưa rỉ xuống tạo thành nhiều thạch nhũ có
hình thù rất đẹp và lạ mắt. Vì là hang tối nên muốn vào hang phải dùng
đèn pin, các thạch nhũ trong hang khi chiếu ánh sáng vào thì phản chiếu
sáng lấp lánh như những viên kim cương kết thành chùm đã được gắn kết
vào vách hang. Cũng vì điểm đặc biệt này mà hang có tên gọi là hang Kim
Cương. Bên cạnh đó chúng còn tạo thành nhiều hình thù lạ mắt như: tượng
Phật bà Quan âm, trái khổ qua, đại bàng, bạch tuột, rắn hổ mang, bông bí
rợ…khi đứng cạnh phiến đá đặc biệt trong hang mà vỗ vào ngực sẽ phát ra
âm thanh như tiếng trống dân địa phương gọi là Trống ngực. Tương truyền
nơi đây chính là nơi vua Gia Long từng ẩn náu. Rời khỏi hang có một
vách núi nhô ra biển gọi là mũi công chúa Ngọc Du. Chuyện kể rằng khi
đoàn thuyền của Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi chạy đến đây, tướng
Tây Sơn đuổi kịp nhảy lên thuyền của công chúa Ngọc Du thì đồng thời
công chúa cũng gieo mình xuống biển. Sau đó Nguyễn Ánh trở lại và lập
đàn tế đặt tên là Mũi công chúa Ngọc Du. Phía bắc Chùa có một mạch nước
lộ thiên hình tròn cỡ giếng nhỏ sát vách đá lúc nào cũng đầy nước chảy
xuống từ khe đá trên núi, được người dân sử dụng tưới cây, sinh hoạt.
Phía đông Chùa Hang là Giếng Tiên. Đây là hang động trong núi ăn ra
biển, bị mưa và sóng biển xâm thực tạo thành, cửa hang nằm hướng ngoài
biển, muốn đến phải đi tàu khoảng 10 phút.Hang được cấu tạo bằng đá vôi
có nhiều mạch nước rỉ xuống tạo thành thạch nhũ với rất nhiều hình thù,
tuỳ theo trí tưởng tượng của mỗi người mà có thể hình dung ra thành các
hình tượng khác nhau như: Cội bồ đề, ghế vua Gia Long, con bạch tuột,
đùi gà, trái khổ qua,… Điều đặc biệt nhất là trong hang này lại có một
giếng nước ngọt nằm trên vách đá, nước có quanh năm không bao giời cạn
và cũng không bao giờ tràn ra ngoài. Nguồn nước mát lạnh và tinh khiết
nên được người dân địa phương tin đó là giếng nước thiêng do trời đất
ban tặng. Hang tối đen như mực vì thế mà Nguyễn Ánh lẩn trốn quân Tây
Sơn tại đây trong một thời gian dài mà không bị nghĩa quân Tây Sơn phát
hiện. Tương truyền khi ông cùng đoàn tỳ tùng trốn chạy đến đây thì mọi
người không còn sức để đi tiếp, ông cùng các tướng sĩ trốn trong hang đã
lấy nước này cho quân sĩ uống thì họ trở nên khoẻ mạnh và tinh thần
phấn chấn hẳn lên nên Nguyễn Ánh đã đặt tên là Giếng Tiên. Ngày nay hang
còn có tên gọi khác là hang Gia Long.
Hàng
năm Chùa Hang tổ chức lễ hội long trọng từ ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch
kéo dài đến ngày 15 tháng 4 âm lịch. Đây là những ngày hội mừng Phật Đản
được tổ chức với nét văn hoá đặc sắc…Chùa Hang bé nhỏ huyền bí nhưng
không khép kín mà mở ra với trời biển mênh mông đưa khách thập phương từ
thiền môn bước ra hòa mình với trời biển mênh mông. Theo lòng hang
ngoằn ngoèo trong lòng núi cuối cùng bạn sẽ nghe những ngọn gió mang hơi
biển thổi vào mằn mặn, ngẩng nhìn, trước mắt bạn là một vùng biển trời
bao la rộng lớn, cái tên “Hải Sơn Tự” của chùa cũng đủ thấy mối liên hệ
kỳ diệu của biển và núi nơi đây.